A. Mở Ðề
Vì Sao Phật Nói Khổ Ðế Trước
và Tập Ðế Sau
Trong Khổ đế, chúng ta đã
thấy rõ những nỗi thống khổ của trần gian. Trước những nỗi khổ ấy, không ai là
không nhàm chán, ghê sợ cho cuộc đời ở cảnh giới Ta Bà nầy, và không ai có thể
an tâm, điềm nhiên sống trong cảnh ấy. Nhiều câu hỏi liền nẩy ra trong đầu óc
chúng ta: Vì đâu sanh ra những nỗi khổ ấy?
Ta có thể thoát ra khỏi móng vuốt của chúng để sống ở một cảnh giới đẹp đẽ hơn chăng? Và thoát ra bằng cách nào?
Ta có thể thoát ra khỏi móng vuốt của chúng để sống ở một cảnh giới đẹp đẽ hơn chăng? Và thoát ra bằng cách nào?
Ðó là những câu hỏi mà đức
Phật sẽ lần lượt giải đáp một các tường tận ở ba phàn: Tập, Diệt và Ðạo đế.
Ngay trong phần Tập đế nầy,
đức Phật giải đáp câu hỏi thứ nhứt của chúng ta là nói rõ nguyên nhân của đau
khổ.
Ðức Phật rất rành tâm lý của
chúng sanh, nên mới nêu lên cái khổ trước rồi mới nói cái nhân sau. Nếu vào
ngay đầu, Ngài nói: “Nầy các ngươi ! hãy nghe ta nói rõ những nguyên nhân sanh
ra đau khổ đây !” Nếu Ngài bảo như thế, chắc chúng ta sẽ không chú ý nghe cho
lắm, vì chúng ta, mặc dù là sống trong bể khổ, những vì mê mờ, chúng ta có thấy
một cách tường tận và rùng rợn tất cả những nỗi khổ của cảnh Ta Bà đâu? Có
nhiều khi chúng ta còn cho cảnh giới nầy là vui nữa là khác. Do đó, chúng ta
không thiết tha đi tìm nguyên nhân phát anh đau khổ. Chỉ khi nào chúng ta đã ý
thức một cách sâu sắc những nỗi khổ sở của chúng ta, khi ấy chúng ta mới thấy
sự băn khoăn khẩn cấp đi tìm đường tự giải cứu cho chúng ta. Và muốn tự giải
cứu, tất chúng ta cầm tìm xem vì đâu mà có đâu khổ; như vị lương y, muốn trị
bệnh, trước phải tìm hiểu nguyên nhân sinh bệnh.
Nguyên nhâ sinh bệnh khổ đâu
của chúng sanh, đức Phật gọi là Tập đế.
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa
Tập đế: Tập là chứa nhóm,
dồn thêm mỗi ngày mỗi nhiều hơn lên. Ðế là sự thật vững chắc, đúng đứn hơn cả.
Tạp đế là sự thật đúng đắn, vững chắc về nguyên nhân của những nỗi khổ đã chứa
nhóm, tích trữ lâu đời, lau kiếp trong mỗi chúng sanh. Ðó là sự thật về cội gốc
của sanh tử, luân hồi, của bể khổ trần gian.
II. Nguyên Nhân Của Ðau Khổ Là Những Gì?
Phật dạy: Cội gốc của sanh
tử luân hồi do các phiền não mê lầm là những dục vọng xấu xa, những ý niệm sai
quấy, làm não loạn thân tâm chúng ta.
phiền não rất nhiều, nói
rộng thì đến tám muôn bốn ngàn (84.000), nói hẹp lại thì có mười phiền não gốc,
gọi là căn bản phiền não. Do mười phiền não gốc nầy mà sanh ra vô số phiền não
ngành ngọn (xin xem quyển Tu Tâm). Mười phép phiền não gốc là:
1. Tham: nghĩa là tham lam. Tánh
tham có động lực bắt ta phỉ dòm ngó, theo dõi những cái gì nó ưa thích, như
tiền tài, danh vọng, miếng ăn, chỗ ở v.v…rồi nó xúi ta lập mưu nầy, chước nọ để
tầm kiếm cho được những thứ ấy. Ðiều tai hại nhất là lòng tham không có đáy,
thâu góp bao nhiêu cũng không vừa; được một muốn có mười, được mười muốn có
trăm. Tham cho mình chưa đủ, còm tham cho bà con quyến thuộc và xứ sở của mình.
Cũng vì tham mà cha mẹ vợ con xung đột; cũng vì tham mà bè bạn chìa lìa; cũng
vì tham mà đồng bào trở lại xung đột, xâu xé nhau; cũng vì tham mà chiến tranh
tiếp diễn, giết hại không biết bo sanh linh. Tóm lại, cũng vì tham mà nhân
loại, chúng sanh chịu không biết bao nhiêu điều thống khổ.
Tham không những hại cho
mình và cho người, trong hiện tại mà cả đến tương lai nữa.
2. Sân: nghĩa là nóng
giận. Khi gặp những cảnh trái ý nghịch lòng, như lòng tham không được toại
nguyện, thì sân nổi lên, như một ngọn lửa dữ đốt cháy lòng ta. Thế là mặt mày
đỏ tía hay tái xanh, bộ dạng thô bỉ, nói năng hung dữ, có khi dùng đén võ lực
hay khí giới để hạ kẻ đã làm trái ý, phật lòng ta. Vì nóg giận mà cha mẹ, vợ
con, anh em xa lìa, bạn bè ly tán; vì nóng giận mà đồng bào trở nên thù địch,
nhân loại đua nhau ra chiến trường; vì nóng giận mà kẻ bị tàn tật, người vào
khám đường, kẻ mất địa vị, người tan sự nghiệp. Kinh Hoa Nghiêm chép: “Nhất
niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai”, nghĩa là một niệm sân hận nổi
lên, thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng đều mở ra. Sách Phật chép: “Nhất tinh chi
hỏa, năng thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn”, nghĩa là một đóm lửa giận, có thể
đốt hết muôn mẫu rừng công đức. Thật vậy, lửa sân hận đã bừng cháy lên giữa
lòng nhân loại, và đã đốt thiêu không biết bao nhiêu là công lao, sự nghiệp mà
nhân loại đã tốn bao nhiêu mồ hôi và nước mắt để tạo nên.
3. Si: nghĩa là si mê, mờ ám. Si
như là một tấm màn dày đặc, đen tối trùm lên trí huệ của ta, làm cho ta không
thể nhìn thấy được sự thật, phán đoán được cái hay, cái dỡ, cái tốt, cái xấu.
Do đó, ta gây ra không biết bao nhiêu tội lỗi, làm hại mình, hại người mà không
hay. Vì si mà lòng tham trở thành không đáy, bởi vì nếu người sáng suốt thấy
cái tai hại của tham, thì người ta đã kềm hãm được một phần nào tánh tham. Vì
si mà lửa sân tự do bùng hcáy; nếu người sáng suốt biết cái tai hại của lửa sân
thì không để cho nó hoành hành như thế. Tổ sư đã dạy: “Bất úy tham sân khởi,
duy khủng tự giác trì”. Nghĩa là không sợ tham và sân nổi lên, mà chỉ sợ mình
giác ngộ chậm. Nói một cách dễ hiểu hơn: Không sợ tham và sân, mà chỉ sợ si mê.
Thật đúng như thế: Nếu tham, sân nổi lên, mà có trí sáng suốt ngăn chận lại,
thì tham, sân không có trí huệ, sáng suốt thì tham, sân không thể tồn tại được;
như khi đã có ánh sáng mặt rời lên, thì bóng tối tất nhiên phải tự tan biến.
Ba tánh tham, sân, si này,
Phật gọi là ba món độc; vì do chúng nó mà chúng sanh phải chịu nhiều kiếp sanh
tử luân hồi, đọa vào địa nghục, ngạ quỉ và súc sinh.
4. Mạn: nghĩa là tự nâng
cao mình lên và hạ người khác xuống; tự tháy mình lag quan trọng mà khinh rẻ
mọi người; ỷ mình có tiền của, tài trí hy quyền thế mà dương dương tự đức, mục
hạ vô nhân, khinh người già cả, hỗn láo với người đức hạnh, chà đạp người dưới,
lấn lướt người trên.
Vì lòng ngã mạn cho mình là
hơn hết, nên chẳng chịu học hỏi thêm, không nghe lời nói phải. Do đó, làm nhiều
điều lầm lẫn sai quấy, phước lành tổn giảm, tội lỗi càng tăng, phải chịu sanh
tử luân hồi không bao giờ cùng.
Mạn có bảy thứ:
a) Mạn: hơn người ít,
mà nghĩa mình hơn nhiều.
b) Ngã mạn: ỷ mình hay giỏi
mà lấn lướt người.
c) Quá mạn: mình bằng người
mà cho là hơn người, người hơn mình l\mà cho là bằng.
d) Mạn quá mạn: người hơn mình
nhiều mà cho mình hơn người.
đ) Tăng thượng mạn: chưa chứng thánh
quả mà cho mình đã chứng.
e) Ty liệt mạn: mình thua người
nhiều mà nói rằng thua ít.
g) tà mạn: người tu về tà
đạo, được chút ít thần thông, hoặc hiểu biết được đôi chút việc quá khứ, vị
lai, rồi khinh lướt người.
5. Nghi: nghĩa là nghi
ngờ, không có lòng tin. Người nghi ngờ không làm nên được việc gì hết. Ðối với
người thân trong gia đình, họ không tin cậy giao phó công việc; đối với bạn bè,
họ nghi ngờ tất cả mọi thiện chí. Ngay đối với mình, họ cũng không tự tin nữa.
Ðã không tự tin, họ còn gây hoang mang cho người chung quanh, làm cho người thế
gian ngã lòng, thối chí.
Ðối với đạo lý chân chánh,
họ cũng không hăng hái tin theo. Những pháp tu giải thoát và các điều phước
thiện, họ do dự không làm.
Nghi có ba phương diện:
a) Tự nghi: nghĩa là nghi
mình. Chẳng hạn như nghe chư Tăng bảo: “Tu hành sẽ được giải thoát”, nhưng lại
tự nghi rằng: “Chẳng biết mình tu có được không?”. Vì lòng do dự ngi ngờ ấy,
nên không tu.
b) Nghi pháp: nghĩa là nghi
phương pháp mình tu. Chẳng hạn như nghe kinh Di Ðà nói: “Người chí tâm niệm ph,
từ một ngày cho đến bảy ngày, được nhất tâm bất loạn, đến khi lâm chung sẽ được
Phật Di Ðà tiếp đãn sanh về nước Cực lạc”; nhưng họ lại nghi ngờ “Phương pháp
ấy không biết có kết quả đúng như vậy không? ” Do sự nghi ngờ đó mà không tu.
c) Nghi nhơn: nghĩa là nghi
người dạy mình. Như có người dạy rằng: “Làm lành sẽ được phước, làm ác sẽ bị
tội”; nhưng lại nghi rằng: “Chẳng biết người này nói có thật không “. Do sự
nghi ngờ ấy mà không làm.
Tóm lại, tánh nghi ngờ làm
cản trở sự tiến triển của mình, ngăn ngại mọi công tác hữu ích và làm cho cuộc
đời không vượt ra khỏi cảnh tối tăm khổ sở.
6. Thân kiến: nghĩa là chấp
thân ngũ ấm tứ đại giả hiệp này làm ta. Vì cái chấp sai lầm ấy, nên thấy có một
cái Ta riêng biệt, chắc thật không biến đổi, thấy cái Ta ấy là riêng của ta,
không dính dấp đến người khác, và là một thứ rất quý báu. Vì tưởng lầm như thế,
nên kiếm món ngon, vật lạ cho ta ăn, may sắm quần áo tốt đẹp co Ta mặc, lo xây
dựng nhà cao, cửa lớn cho Ta ở, thâu góp thật nhiều của cải, đất ruộng để dành
cho Ta hãnh diện với mọi người. Do sự quý chuộng phụng sự cho cái Ta ấy, mà tạo
ra lắm điều tội lỗi, chà đạp lên bao nhiêu cái Ta khác, làm cho họ đau khổ vì
Ta. Và thế giới trở thành một bãi chiến trường cũng vì cái Ta.
7. Biên kiến: nghĩa là chấp
một bên, nghiêng về một phía, có một thành kiến cực đoan. Biên kiến có hai lối
chấp sai lầm lớn nhất là:
a) Thường kiến: nghĩa là chấp
rằng khi chết rồi, cái Ta vẫn tồn tại mãi: người chết sẽ sanh ra người, thú
chết sẽ trở lại thú, thánh nhơn chết trở lại làm thánh nhơn. Do sự chấp ấy, họ
cho rằng tu cũng vậy, không tu cũng vậy, nên không sợ tội ác, không thích làm
thiện. Lối chấp này, đọa Phật gọi là “Thường kiến ngoại đạo”.
b) Ðoạn kiến: nghĩa là chấp
rằng chết rồi là mất hẳn. Ðối với hạng người chấp Ðoạn kiến, thì hễ tắt thở là
không còn gì tồn tại nữa; tội cũng không mà phước cũng chẳng còn. Họ không tin
nhân quả luân hồi, nên mặc tình làm các điều tội lỗi. Họ tự bảo: “Tu nhơn tích
đức già đời cũng chết; hung hăng, bạo ngược tắt thở cũng không còn”.
Có người đối trước những
cảnh buồn lòng, nghịch ý, những chuyện tình duyên trắc trở, tưởng rằng chết là
hết đau khổ, là giải thoát tất cả, nên họ đã không ngần ngại mượn chén thuốc
độc, hay dòng sông sâu để kết liễu đời mình. Họ đâu có ngờ rằng chết rỗi vãn
chưa hết ! Lối chấp này, kinh Phật gọi là “Ðoạn kiến ngoại đạo”.
8. Kiến thủ: nghĩa là chấp
chặt sự hiểu biết sai lầm của mình.
Kiến thủ có hai phương diện:
a) Kiến thủ vì không ý thức
được sai lầm của mình. hành vi của mình sai quấy, ý kiến của mình sai lầm,
nhưng vì không đủ sáng suốt để nhận thấy, nên cứ bảo thủ hành vi, ý kiến của
mình, tự cho là giỏi, ai nói cũng chẳng nghe.
b) Kiến thủ vì tự ái hay vì
cứng đầu. Biết mình làm như thế là sai, nói như vậy là dở, nhưng vì tự ái, cứ
bảo thủ cái sai cái dở của mình, không chịu thay đổi. Như ông bf trước đã lờ
theo tà đạo, nay con cháu vẫn biết đó là tà, nhưng cứ theo như thế mãi không
chịu đổi. Họ cứ nói một cách liều lỉnh: “Xưa sao nay vậy”, hy “Xưa bày này
làm”. Hay như cha mẹ trước đã lỡ làm nghề tội lỗi, đến đời con cháu, vẫn cứ bảo
thủ nghề ấy không chịu thay nghề khác.
Nói rộng ra trong thế giới,
có một số đông người, mặc dù thời thế đã cải đổi, tiến bộ mà họ cứ vẫn giữ lại
những lề thói, cổ tục hủ bại mãi. Chẳg hạn như ở Việt Nam ta, đến bây giờ mà
vẫn có những Phật tử, hễ trong nhà có người chết là giết heo bò để cúng kiến;
khi đưa đám tang, gánh theo những con heo quay to tướng, đi biểu diễn qua các
đường phố; mỗi khi tuần tự hay kỵ giỗ, thì đốt giấy tiền vàng bạc, áo quần kho
phướg, mỗi năm phải hội họp để cúng tế tà thần, ác quỷ v.v…Chấp chặt những hủ
tục như thế, đều thuộc và “Kiến thủ” cả.
9. Giới cấm thủ: nghĩa là làm
theo lời răn cấm của ngoại đạo tà giáo. Nhưng sự răn cấm nầy nhiều khi thật vô
lý, mê muội, dã man, không làm sao đưa người ta đến sự giải thoát được, thế mà
vẫn có nhiều người tin và làm theo. Chẳng hạn như ở Ấn độ, có phái ngoại đạo
lấy đá dằn bụng, đứng một chân giữa trời nắng, nằm chỗ bẩn thỉu, leo lên cao
nhảy xuống, gieo mình vào lửa, hay nhảy xuống sông trầm mình để được phước. Có
đạo, mỗi năm lại bắt tín đồ giết một người để tế thần, hay như đạo của anh
chàng Vô Não, phải giết một trăm người lấy một trăm ngón tay xâu làm chuỗi hạt
mới đắc đạo.
Những thứ cuồn tín như thế,
không làm cho cuộc đời sáng sủa, mà còn làm đen tối, khổ đau thêm.
10. Tà kiến: nghĩa là chấp
theo lối tà, không chơn chánh, trái với sự thật, trái với luật nhân quả. Nói
một cách khác, Tà kiến nghĩa là mê tín dị đoan, như thờ đầu trâu, đầu cọp, bình
vôi, ông táo, xin xâm, bói quẻ, buộc tôm, đeo niệt, coi sao, cúng hạn v.v…
Nói rộng ra, cả bốn món chấp
trên, đều thuộc và Tà kiến cả.
III. Tánh Chất Của 10 Món Căn Bản Phiền Não
Tánh chất của mười món căn
bản phiền não không giống nhau: có thứ nhanh nhẹn, có thứ chậm chạp; có thứ
mãnh liệt, có thứ yếu ớt; có thứ đam sâu gốc rễ trong lòng người, có thứ nằm
khơi khơi ở trên ý thức; có thứ dễ dứt trừ, có thứ khó tiêu diệt. Vì tính chất
không đồng ấy mà đức Phật đặt cho chúng những danh từ khác nhau, để dễ phân
biệt, như Kiết sử, Kiến hoặc, Tư hoặc.
1. Kiết sử: Mười thứ phiền
não gốc: thâm, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm
thủ, tà kiến cũng gọi là “Thập Kiết sử”.
Kiết là trói buộc; Sử là sai
khiến. Mười phiền não nầy gọi là Kiết Sử, vì chúng nó có mãnh lực trói buộc
loài hữu tình không cho ra khỏi ba cõi và sai sử chúng sinh phải quay lộn trong
vòng sanh tử luân hồi, từ đời nầy đến kiếp nọ, và phải chịu không biết bao
nhiêu điều khổ não.
Tuy đều có tánh chất sai sử,
trói buộc cả, nhưng mười Kiết sử này có thứ mạnh, thứ yếu, thứ chậm chạp, thứ
mau lẹ, nên đức Phật chia chúng ra làm hai thứ với hai tên gọi khác nhau là:
Lợi sử và Ðộn sử.
a) Lợi sử là những món
phiền não rất lanh lẹ, dễ sanh khởi mà cũng dễ trừ bỏ [ lợi là lanh lợi). Lợi
sử gồm có năm là: Thân kiến Biên Kiến, Kiến Thủ, Giới Cấm thủ ,Tà Kiến.
b) Ðộn sử là những món phiền
não nặng nề, chậm chạm, sanh khởi một cách ngấm ngầm, sâu a, nhưng mãnh liệt,
khó dứt trừ (độn là chậm lụt). Thuộc về Ðộn sử gồm có năm phiền não là: Tham,
Sân, Si, Mạn, Nghi.
Người học Phật muốn giải
thoát, tất nhiên phải chựt đứt mười thứ dây nhợ, xiềng xích nầy mới được.
Trước khi muốn chặt đứt
chúng một cách có hiệu quả, phải hiểu rõ tánh chất mềm hay cứng, bở hay dai của
chúng để liệt chúng vào loại dễ chặt hay khó chặt. Như người bửa củi, chia củi
ra làm hai loại: loại dễ bửa và loại khó bửa; loại dễ bửa thì dùng bú nhỏ, loại
khó bửa thì dùng búa lớn; cũng vậy, hành giả trước khi muốn chặt đứt phiền não,
phải liẹt chúng làm hai loại: lọi Kiến hoặc dễ trừ, vf loại Tư hoặc khó diệt.
2. Kiến hoặc: Chữ Kiến hoặc có
hai nghĩa:
a) Loại mê lầm nầy mong manh
cạn cợt, chỉ tu hành đến địa vị Kiến đạo (thấy chân lý) thì đoạn được.
b) Loại mê lầm nầy tuộc về
phần vọng kiến (vọng chấp), phân biệt của ý thức đối với sự vô thường, vô ngã
v.v….mà sinh ra; hay do lầm nghe theo lời khuyên dạy của ta sư ngoại đạo mà
sinh ra.
Nói một cách dễ hiểu hơn,
Kiến hoặc là cái lầm thuộc về mê ly, do vọng chấp (chấp sai) phân biệt của ý
thức sanh ra. Ðến địa vị Kiến đạo là đoạn trừ được cái hoặc này. Bởi chúng nó
dễ trừ, cũg hư cỏ mọc khơi trên mặt đất, hễ dẫy (phác) thì hết, nên cũng gọi là
“Phân biệt hoặc” (nghĩa là cái lầm về phần phân biệt của ý thức).
Tóm lại, Kiến hoặc hay Phân
biệt hoặc là do mê ly mà sanh, và sẽ bị diệt trừ khi ngộ được chân lý.
Mười phiền não nói trên, hay
Kiến hoặc, nếu đem phối hợp với bốn Ðế trong ba cõi, thì thành ra tám mươi tám
hoặc.
Ðể có một ý niệm rõ ràng
hơn, chúng ta hãy phân tách như sau:
Mười món Kiến hoặc là: Tham,
Sân, Si, Mạn, Nghi, Thân kiến, Biên kiến, Kiến thủ, Giới cấm thủ và Tà kiến.
Trong ba cõi (Dục giới, Sắc
giới, Vô sắc giới), mỗi cõi có bốn Ðế (khổ, tập, diệt, đạo), mỗi đế có các hoặc
(mê lầm) chung hiệp lại thành tám mươi tám Kiến hoặc.
Như Dục giới có bốn Ðế: Khổ,
Tập, Diệt, Ðạo. Khổ đế có đủ mười hoặc. Tập đế và Diệt đế chỉ có bảy hoặc (vì
trừ Thân kiến, Biên kiến và Giới cấm thủ). Ðạo đế có tám hoặc (trừ Thân kiến và
Biên kiến). Bốn đé cộng thành ba mươi hai Kiến hoặc.
Cõi Sắc và Vô sắc cũng y như
Dục giới, song ở trong đó mỗi Ðế đều trừ ra một món Sân (vì hai cõi nầy chỉ có
vui trong thiền định, nên chẳng có Sân) nên mỗi cõi chỉ có hai mươi tám hợc.
Hai cõi hiệp lại thành năm mươi sáu hoặc; cộng với ba mươi hai hoặc ở cõi Dục
nữa, tổng cộng thành ra tám mươi tám món Kiến hoặc.
Ðây là biểu đồ 88 món Kiến
hoặc
I. Dục giới (có 32)
1. Khổ đế: 10
a) Tham, b) Sân, c) Si, d)
mạn, đ) Nghi; e) Thân kiến; ê) Biên kiến, g) Kiến thủ, h) Giới cấm thủ, I) Tà kiến
2. Tập đế: 7
Như Khổ đế, trừ
Thân kiến, Biên kiến và Giới cấm thủ
3. Diệt đế: 7
Như tập đế
4. Ðạo đế: 8
Trừ Thân kiến và
Biên kiến
II. Sắc giới (có 28)
1. Khổ đế: 9
Như Khổ đế ở Dục
giới, trừ Sân.
2. Tập đế: 6
Như Tập đế ở Dục
giới, trừ Sân.
3. Diệt đế: 6
Như Diệt đế ở Dục
giới, trừ Sân.
4. Ðạo đế: 7
Như Ðạo đế ở Dục
giới, trừ Sân.
III. Vô sắc giới (có 28)
Như Khổ, Tập,
Diệt, Ðạo ở Sắc giới.
Sắc giới và Vô sắc giới đều
trừ Sân, là vì hai cõi nầy ở trong thiền định, có hỷ có lạc, nên Sân không sanh
khởi.
Khổ đế đủ mười hoặc là vì
thuộc về Quả. Tập đế ít hơn (có 7) là vì thuộc và Nhân. Diệt đế là quả xuất thế
nên chỉ có 7. Dạo đế về phần tu hành nên chỉ có 8.
3. Tư hoặc: Trong số mười
phiền não căn bản nói trên, có bốn thứ ăn sâu gốc rễ từ vô thỉ rất khó diệt trừ
là Tham, Sân, Si, mạn (bốn Ðộn sử) thì gọi là Tư hoặc. Theo tân dịch thì Tư
hoặc có hai nghĩa:
a) Nó ngấm ngầm khởi lên, do
mê muội về sự vật mà sanh; như đói với sự vật ăn, mặt, ở ( sắc, thanh, hương,
vị, xúc) sanh tham gia trước.
b) Sự mê lầm này phải đến
địa vị Tu đạo mới trừ dứt được.
Chúng nó có từ vô sỉ đén
giờ, hễ có ta là có nó, nó với ta đông minh mộit lượt, nên cũng gọi là “câu
sanh hoặc “. Chúng nó có tiềm tàng sâi kín, và chi phối sai tử chúng tamột cách
mãnh liệt, nên hành giả phải hết sức tu trì, mới có thể lần trừ hồi được. Cũng
như cỏ cú, phải ra công moi đào nhiều lần, mới nhổ sạch tâĩn gốc.
Tóm lại Tư hoặc cũng có tên
Câu sanh hoặc, do sự mê là sanh, và chỉ khi đến địa vị Tu đọ mới đoán ra được.
Mười món này phối hợp với
bốn đế ở ba cõi, sẽ thành 81 món như sau:
Mười món Dục giới, có 4:
Tham, San, Si, Mạn.
Tư Hoặc Sắc giới, có 3:
Tham, Si, Mạn.
Vô sắc giới, có 3: Tham, Si,
Mạn
(hai cõi sâu vì ở trong
thiền định, nên không có sân)
Bốn thứ tư hoặc này lại chia
ra làm ba hạng: hạng nhất là bậc thượng; hạng vừu là hạng bậc trung; hạng kém
hơn là hạng bậc hạ. Mỗi hạng như hé lại chia ra làm ba bậchay ba phẩm nữa
(thượn, chung, hạ), cộng tất cả thành chín phẩm.
(Xem
biểu chín phẩm Tư hoặc dưới đây)
Mười thứ Tư hoặc chia làm chín
phẩm
I. Thượng
1. Thượng thượng
2. Thượng trung
3. Thượng hạ
II. Trung
1. Trung thương
2. Trung trung
3. Trung hạ
III. Hạ
1. Hạ thượng
2. Hạ trung
3. Hạ hạ
Chín phẩm Tư hoặc nhân cho
ba cõi (gồm chín địa 81 thứ) hoặc.
(Xem biểu đồ 81 moán Tư hoặc
đưới đây)
I. Dục giới
1.Ngũ thứ tạp cư
địa, có: 9 phẩm Tư hoặc
II.Sắc giới
2. Sơ Thiền, ly sanh hỷ lạc
địa: __
3. Nhị thiền định sanh hỷ
lạc địa: __
4. Tam thiền ly hỷ lạc địa:
__
5. Tứ thiền xả niệm thah
tịnh địa: __
III. Vô sắc giới
6. Không vô biên xứ địa __
7. Thức vô biên xứ đia __
8. Vô sỡ hữu xứ
địa __
9. Phi phi tưởng xứ địa __
Cộng: 9 địa Thành: 81 phẩm
Tư hoặc
VI.
Tóm Tắt Về Ý Nghĩa Kiến Hoặc và Tư Hoặc
Nói tóm lại, nhưng cái mê
lầm thuộc về phần phan biệt (do ý thức phân biệt mà sanh) đều thuộc về Kiến
hoặc. Nhừn cái mê lầm thuộc về phând Câu sanh (ngấm ngầm cùng với ta đồng sanh)
th ì thuộc về phần Tư hoặc.
Lại một nghĩ nữa, những cái
mê lầm thuộc về phần mê lý, đến khi Kiến đạo là đoạn trừ đuợc, nên gọi là Kiến
hoặc. những cái mme lầm thuộc về phần mê sự, phải tu hành đến địa vị Tu đạo,
mới lần đoạn trừ, tjhì gọi là tư hoặc. Ðoạn Kién hoặc chỉ mới là ếwt cái lầm
trên phương diện kiến thuắc; đến khi đoạn Tư hoặc thế gian hì cả cái lầm trên
phương diện ý thức, hanhd vi đều không còn nữa.
Ðoạn 88 cái lầm về Kiến hoặc
và 81 cái lầm về Tư hoặc thì sẽ chứng được 4 quả thánh Thanh văn của Tiểu thừa,
trong đó quả vị cao nhất là quả vị A la hán (1)
C. KẾT LUẬN:
Sỡ dĩ chúng sinh chịu được
các đều khổ não, nguyên nhân là do phiền não gây tạo ra nghiệp Tập đế. Tập đế
gồm có nhiều thứ phiền não; nhưng có mười thư can bản phièn não là: tham, sân,
si, mạn, nghi, thân kiếm, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ và tà kiến.
Trong 10 món này, vì căn cứ
theo nhiều cái dễ phát sinh dễ trừ là năm món sau, thì gọi là ngũ lợi sữ; còn 5
món trước tánh nó ngấm ngầm phát sanh và khó đoạn trừ thì gọi là Ngũ độn sử.
Ðứng về phương diên Tu chứng
mà xét, thì hành giả trong khi tu hành, chia 10 món phiền não trên làm hai loại,
để đoạn trừ trong thời kỳ sau đây:
1. những cái mê lầm khi thấy
đạo (chân lý) mới đoạn được, thì gọi là Kiến hoặc.
2. Những cái mê lầm khi đến
địa vị tu đạo mới đọan được thì gọi là Tư hoặc.
Về Kiến hoặc, ở cõi Dục giới
có 32 món mê lầm, ở cõi sắc giới có 28 và Vô sắc giới cũng có 28, cộng lại
thành 88 món mê lầm. Cái lầm ở cõi dục rất thô, đến cõi sắcvà Vô sắc giới thì
vi tế hơn. Ðoạn được 88 thứ Kiến hoẳc trong ba cõi, thì chứng đặng quả thánh
thứ nhất trong bốn quả của Tiẻu thừa là Tu đà hoàn (Tàu dịch là Dự lưu). Ðến
qủa này, 81 phẩm tư hoặc của ba cõi vẫn chưa đoạn trừ.
Về Tư hoặc thì cõi Dục giới
có 4: tham, sân, si man. Cõi sắc giới và vô sắc, mỗi cõi có ba (vì trừ sân).
Cộng chung lại là mười món Tư hoặc. Vì chúng có thô vi tế không đồng nên phân
ra có thượng, trung, hạ phẩm. Mỗi phẩm lại phân ra ba phẩm nữa là: Thượng,
trung, hạ cộng thành 9 phẩm.
Trong ba cõi có chia ra làm
9 địa mỗi địa có 9 phẩm Tư hoặc từ thô đến tế, công chung 9 địa thành ra 81 Tư
hoặc (1) (1)
Chín phẩm Tư hoặc ở cõi Dục
thì rất thô, còn hai cõi trên lần vi tế. Các thứ phiền não Tư hoặc vi tế dây,
chiêu cảm với nhữn khổ quả sanh tử, luân hồi trong cõi, chứng quả A la Hán.
Phần
Phụ Chú
Tứ Ðế là thuộc về giáo lý
tiểu thừa. Trong khi nghiên cứu và trung thành với giáo giáo lý này, chúng tôi
chỉ kể chỉ có hai thứ hoặc và kiến hoặc và Tư hoặc. Nhưng theo giáo lý Ðại thừa
thì ngoài hai hoặc trên, có hai thứ hợc khác nữa là Trần sa hoặc.N ếu chứng quả
vị Ðại Thừa Bồ tát hay Phật, thì phải đoạn trừ hai hoặc sau này
Ðể có một ý niệm tổng quát
về các thứ hoặc, chúng tôi xin được phụ chú dưới đây hai loại hoặc ấy:
1. Trần sa hoặc: Trần sa hoặc là
cái mê lầm như cát bụi. Cái mê lầm không phải của mình, vì khi chưng đươc quả A
la Hán thì cái me lầm về phần Kiến Hoặc và Tư hoặc nơi cá nhân mình đã hết. Cái
chơn trí ở nơi tâm mình đã sáng suốt rồi. Nhưng so với mình, còn thấy cái mê
lầm của chúng sinh nhiều như cát bụi, nên sanh tâm chán ngán, thối chí độ sanh,
cứ trầm không thu tịch, thủ cảnh thiên không Niết Bàn của Tiểu Thừa, không chịu
ra hóa đạo độ sanh (vì còn pháp chấp, mê lầm thấy thật có pháp mình tu, Niết
Bàn mình chứng).
2. Vô minh hoặc: Vô minh là mê
lầm, không rõ được bản chất chơn tâm. Thứ mê lầm này là góc của các thứ mê làm
khác, nên gọi là bản vô minh. Nó rất vi tế, phá trừ trần sa hoặc rồi mới phá
trừ được Vô minh hoặc.
Cứ theo lối tu chứng của Ðại
Thừa mà luận, thì phải trải qua 51 địa vị, mới phá hết dược các vô minh. khi
mãn địa vị Thập tín rồi bắt đầu lên thập trụ (10 vị) phá một phần vô minh thì
được một phần đức pháp tánh (3 đức: Pháp thân, bát thân, Giải thoát), chứng len
vị sơ trụ. Như thế cú phá thêm một phần vô minh là chưng lên một địa vị; cho
đến phá được 10 phần thì phá đước Thập trụ. Bước qua Thập hạnh (10 vị), Thập
hồi hướng (10 vị) và thập địa (10 vị ) cũng thế, nghĩa là phá một phần vô minh
thì chứng lên một địa vị. Cho đến địa vị thứ 51; là Ðẳng giác, dùng trí kim
cương phá sạch hết tướng vô minh rất tinh tế rồi, thì chứng được địa vị thưa 52
là quả Diệu giác (Phật). Lúc bấy giờ vô minh diệt hết trí giác thế gian toàn
minh, cũng như trăng rằm Trung thu, bao nhiêu mây mờ vẹt hết, tỏa ánh sáng khắp
mười phương.
Chúng ta nên lưu ý: Kiến hoặc, Tư
hoặc là chiêu cảm phần đoạn sanh tử trong ba cõi. Ðoạn Kiến hoặc. Tư hoặc thì
không thọ phần sanh tử ra ngoài tam giới, được thiên lý chơn, chúng nhị thừa:
Thanh văn, Duyên giác. Ðoạn Trần sa hoặc chứng quyền thừ Bồ tát. Ðoạn sạch vô
minh chứng quả Phật vô thuợng. Xét như thế thì từ khi phát tâm tu hành cho đến
thành Phật, phải trải qua một công trình lớn lao và một thời gian lâu xa mới
được.
(1) Sở dĩ gọi là phẩm mà
không gọi là món, loại hay thứ là vì trong mỗi mê lầm ấy, không khác chất, chỉ
khác phẩm lượng mà thôi, nghĩa là nó đậm hay nhạt, mạnh hay yếu mà thôi.
Trích trong PHẬT HỌC PHỔ THÔNG của Hòa thượng Thích Thiện Hoa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét