Lý do có đoàn thỉnh Kinh từ Đại Đường sang Tây Thiên đã được Pháp Minh Khoa nêu trong
bài “Học Tây Du Ký 04” Tuy nhiên đây
chỉ là lý do bề nổi được nêu
chính thức trong truyện. Vậy lý do
bên trong hay có thể nói là mục đích thật sự để Ngô Thừa Ân bỏ công sức viết bộ tiểu
thuyết Tây Du Ký là gì ? Ai cũng biết 1 tác phẩm văn học ngoài ý
nghĩa và nội dung thể hiện bằng
giấy mực đọc được, giá trị của
tác phẩm thường lại là ý nghĩa và nội dung mà người đọc phải suy
ngẫm mới hiểu ra.
Có lẽ đa số Phật tử hoặc nghiên cứu về Đạo
Phật đều thống nhất ý nghĩa sâu xa và quan trọng nhất của tác phẩm
Tây Du Ký không phải kể về hành trình của đoàn thỉnh kinh đi từ nước
Đường bên Phương Đông sang Tây Trúc
bên Phương Tây để thỉnh kinh Phật về mà là thể hiện hành trình tu
tập của một Phật tử. Tuy đoàn thỉnh Kinh 5 người nhưng lại chính là 1 người, từ những hiểu
biết sơ khởi về giáo lý Đạo Phật đã tự lực quyết tâm vượt qua mọi
chướng ngại để đạt được Giác ngộ (đắc Đạo). Đã có nhiều nhà nghiên
cứu viết thành sách về ý nghĩa này của tác phầm như “Giải mã
truyện Tây du” của Lê Anh Dũng (NXB Thanh niên) , như “Bàn về Tây Du
Ký của Ngô Thừa Ân” của Thích Chơn Thiện (Nhà Xuất bản Tôn Giáo 2000); “Tây Du Ký qua
cách nhìn của người học Phật” của Huyễn Ý (NXB Văn hóa thông tin 2008) …
Cũng chính vì ý nghĩa này mà Pháp Minh Khoa
đã sử dụng Tây Du Ký như là 1 trong những tài liệu học tập để tu
tập Phật Đạo cho mình. Một trong những ý nghĩa giá trị của Tây Du
Ký là hình tượng về 5 thành viên trong đoàn thỉnh kinh. Cả 3 tài
liệu nêu trên đều chỉ rõ 5 thành viên này chỉ là 5 thành tố hay tính
cách của 1 Phật tử trong hành trình tu tập Phật đạo.
Trong Tây Du Ký qua cách nhìn của người học Phật” cảu Huyễn Ý, ý nghĩa của 5
nhân vật là:
-
Ngài Đường Huyền Trang chỉ cho Tạng thức (thức thứ 8).
-
Tôn Ngộ Không (Tề Thiên Đại Thánh) chỉ cho Ý thức (thức thứ 6)
-
Trư Bát Giới chỉ cho năm thức: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức,Thân
thức (Tiền ngũ thức).
-
Sa Ngộ Tịnh chỉ cho Mạc Na thức (thức thứ 7).
-
Con ngựa chỉ cho Sắc thân hay Sắc uẩn.
Trong “Bàn về Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân” của Thích Chơn Thiện
-
Ðường Tăng là tiếng nói của hạnh nguyện giải thoát,
của bi nguyện độ sinh, và sau hết là tiếng nói của cho tim trần thế.
-
Tôn Ngộ
Không là biểu trưng cho Chánh kiến và Chánh tư duy (Huệ), sau khi được Tu Bồ
Đề dạy, đã đạt được trí tuệ giải thoát nhưng vì chưa là trí tuệ giải
thoát sau cùng, nên vẫn phải tu tập
thêm Giới và Ðịnh
-
Trư Bát Giới quả là hiện thân của dục vọng, của sự
buông lung thân, khẩu, hành và khi tham gia đoàn thỉnh kinh đã thể hiện
công phu hành trì giới uẩn để chế ngự dục vọng và tẩy trừ thân, khẩu
nghiệp.
-
Ngộ Tịnh là biểu tượng của công phu tu tập hành
trì Thánh định uẩn. Từ một người đánh
mất chánh niệm (làm đổ ly ngọc mà bị đày xuống trần gian) khi theo Ðường Tăng đã thiết lập lại chánh niệm tỉnh giác.
-
Tiểu Long Mã từ kẻ ngỗ nghịch bất hiếu phải bị
trừng trị, khi theo đoàn thỉnh kinh đã thể hiện sự chuyển hóa của
tâm Hiếu. Tâm Hiếu làm nền tảng cho
tâm Bi, một trong Tứ vô lượng tâm của Đạo Phật (Từ – Bi – Hỷ – Xả),
là nền chuyển tải việc cứu thoát chúng sinh của Đạo Phật
Trong
“Giải
mã truyện Tây du” của Lê Anh Dũng
-
Đường tăng là tính từ bi, nhân hậu, bao dung, đồng
thời cũng u mê, nhu nhược, ba phải
nhưng có quyết tâm tu hành vượt qua muôn vàn cám dỗ
-
Tề thiên là trí, lý trí. Lý trí có đặc điểm
loạn động (tâm viên, ý mã), nhanh (cân đẩu vân) và ưa nổi loạn, ngang tàng phách lối, chẳng chịu
thua kém nhường nhịn ai. Vì thế nên cần thiết phải được uốn nắn luôn luôn cho
hợp với kỷ cương, khuôn phép (đội kim cô). Đến khi thành Đạo, cái trí con
người tự trở nên sáng không còn cần kiềm tỏa (vòng kim cô tự mất)
-
Bát
giới là sự tập hợp những bản năng rất vật dục và tầm thường nơi con người, là tánh tham: Tham ăn, tham ngủ, tham của,
tham sắc và tham nịnh nọt cho được lợi về mình.
-
Sa
tăng là tánh cần cù, nhẫn nại. Sa tăng là hình ảnh của tinh tấn, trì thủ, tâm bất
thối chuyển.
-
Ngựa
thần là xác thân cương kiện. Một tinh thần minh mẫn trong một xác thân tráng kiện.
Con người đi tìm Chân lý, tìm Đạo, cần có xác thân vững vàng, khoẻ mạnh.
Pháp Minh Khoa hoàn toàn đồng ý với các quan điểm trong 3 tài liệu trên: cả đoàn thỉnh kinh gồm Đường tăng, Tề thiên, Sa tăng, Bát giới, long mã chính là mỗi người Phật tử đã, đang, và tiếp tục tu tập hành trì trên con đường đến giác ngộ. Tuy nhiên, Pháp Minh Khoa muốn trình bày một góc nhìn khác về 5 nhân vật này so với một số tài liệu đã nêu trên, đó là cách hiểu của mình về ý nghĩa tên từng thành viên trong đoàn thỉnh Kinh. Chính ý nghĩa danh hiệu 5 nhân vật này đã thể hiện một số nội dung cơ bản của Đạo Phật
1-
Đường Tăng
Tên Đường Tăng không có ý
nghĩa nhiều, chỉ thể hiện xuất phát và vai trò: nhà sư của nước Đường
ở Trung Hoa. Có ý nghĩa là tên Đường Tam Tạng. Tam tạng là 1 từ mà
bất kể Phật tử nào cũng biết. Theo Từ điển Đạo UYỂN, Tam Tạng có 3
nghĩa:
-
là 3 phần
cốt tủy về kinh sách của Đạo
Phật: Kinh, Luật và Luận.
-
Dùng làm danh hiệu dành cho những Cao tăng, những vị Đại sư được xem là thông suốt hết tất cả những thánh điển nhà Phật.
-
Chỉ về giáo lý Nhị thừa (tức
giáo lý Thanh Văn, Duyên Giác, chưa bao gồm Bồ Tát thừa tức chưa phải
giáo lý Đại thừa)
Vậy ta có thể hiểu Đường Tam Tạng chỉ
cho phần kiến thức còn mang tính
lý thuyết đồng thời chưa viên mãn (mới ở mức Tiểu thừa). Nếu ta liên
hệ đoạn đối thoại giữa Pháp sư Huyền Trang với Bồ Tát ở hồi 12:
Pháp
sư ngồi trên đài tụng kinh «Thụ sinh độ vong», giảng tập «An bang thiên bảo», đọc
quyển “Khuyến tu công đức”. Bồ tát đến gần, gõ vào bảo đài, hỏi to mấy tiếng:
- Thưa Hòa thượng, ngài chỉ biết giảng giáo lý «Tiểu thừa», có giảng được giáo lý «Đại thừa» không ?
Huyền Trang nghe nói, trong lòng mừng rỡ, đứng dậy bước xuống đài, chắp tay vái Bồ tát, nói :
- Thưa lão sư phụ, đệ tử vô ý thật có tội. Hiện nay các nhà sư đều giảng giáo lý Tiểu thừa, chưa biết giáo lý Đại thừa là thế nào:
Bồ tát nói:
- Giáo lý Tiểu thừa ấy không siêu độ được vong hồn, chỉ có thể mát mẻ sáng sủa hơn mà thôi. Ta có pho kinh “Đại thừa Phật pháp tam tạng» có thể siêu độ cho vong hồn được lên trời, cứu vớt người hoạn nạn thoát khổ, có thể tu sống lâu vô lượng, có thể bất diệt, bất sinh.
- Thưa Hòa thượng, ngài chỉ biết giảng giáo lý «Tiểu thừa», có giảng được giáo lý «Đại thừa» không ?
Huyền Trang nghe nói, trong lòng mừng rỡ, đứng dậy bước xuống đài, chắp tay vái Bồ tát, nói :
- Thưa lão sư phụ, đệ tử vô ý thật có tội. Hiện nay các nhà sư đều giảng giáo lý Tiểu thừa, chưa biết giáo lý Đại thừa là thế nào:
Bồ tát nói:
- Giáo lý Tiểu thừa ấy không siêu độ được vong hồn, chỉ có thể mát mẻ sáng sủa hơn mà thôi. Ta có pho kinh “Đại thừa Phật pháp tam tạng» có thể siêu độ cho vong hồn được lên trời, cứu vớt người hoạn nạn thoát khổ, có thể tu sống lâu vô lượng, có thể bất diệt, bất sinh.
Như vậy, Đường Tam Tạng chính là phần lý thuyết về Đạo Phật mà người mới bắt đầu tu hành phải có
để căn cứ vào đó mà hành trì. Dồng thời, phần lý thuyết này chưa
hoàn chỉnh, vẫn cần được bổ xung thêm trong quá trình tu tập (kiểm
nghiệm thực tế và học thêm, ví dụ được Ô Sào thiền sư dạy “Bát nhã
ba la mật đa tâm kinh” ở hồi 19
2- Tôn Ngộ Không
Theo cách hiểu thông thường đã
thấy Ngộ Không tức là ngộ được tính KHÔNG, một tri thức cốt tủy và
nền tảng của Đại thừa.
Từ 1 con khỉ đá, khi phát
hiện lẽ Vô thường, Khỉ đá đi tầm sư học đạo và được Tu Bồ Đề tổ sư
thu nhận, đạt tên và truyền thụ pháp thuật. Mà Tu Bồ Đề được mệnh danh là “Giải Không đệ nhất”
trong mười đại đệ tử của Đức Phật, tức đệ tử giỏi nhất về lý
thuyết tính Không trong giáo lý cảu Đức Phất truyền dạy.
3-
Trư Ngộ Năng
Theo cách hiểu thông thường thì
Ngộ Năng là ngộ được Bản năng của mình.
Trong Đạo Phật có khái niệm về
“Năng” đối với “Sở”. Năng chỉ cái khả năng, cái có thể, Sở chỉ đối tượng của
năng. Ví dụ năng kiến là tánh thấy, hay con mắt, vì nó có khả năng thấy, Sở
kiến là cái bị thấy. Trong khía cạnh nhận thức thì năng là cái biết, sở
là cái được biết. Trong khía cạnh 12 xứ thì năng là sáu căn và sở là sáu trần. Khi
6 căn gặp 6 trần (sắc , thanh, hương, vị, xúc, pháp) tạo thành 6 thức
từ đó sẽ khởi vọng niệm. Đây chính là nguồn gốc của phiền não.
Như vậy Ngộ Năng là ngộ được
6 căn của mình, không để 6 căn cuốn hút theo 6 trần mà khởi vọng
nghiệp. Muốn ngộ được Năng, không phải chỉ thuộc lý thuyết mà phải
tu tập, cụ thể là phải giữ Giới. Đây chính là ý nghĩa của tên Bát
giới mà sư phụ Đường Tăng ban cho.
4-
Sa Ngộ Tĩnh
Việc đạt được trang thái Tĩnh
(đến mức độ cao chính là ĐỊNH) có vai trò rất quan trọng trong tu
tập Phật đạo. Dù vai trò của Sa Tăng không nổi bật như Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới nhưng ý nghĩa cuat nhân
vật Sa Ngộ Tĩnh chính là nguyên lý tu đạo: Phải Tĩnh mới có thể Định, có Định
mới đủ bộ ba chân kiềng của Tam vô lậu học: Giới (ngộ Năng) - Định (ngộ Tĩnh) - Huệ (ngộ Không) để
có thể giúp hành giả đến bờ giải thoát.
5-
Bạch long mã
Mã
là ngựa mà công dụng chính đối với con người là mang vác chuyên chở.
Vai trò của Bạch Long Mã trong Tây Du Ký là để Đường Tam Tạng cưỡi
và có lúc chở các vật dụng, kinh sách … Nếu người Phật tử không có đủ sức khỏe
thì làm sao có thể chuyển hóa được
cả Tam tạng lý thuyết để kiên trì hành trì Giới – Định – Huệ. Bất cứ người nào khi
dấn thần vào con đường tu tập cũng đều phải tự chuẩn bị và mong mình
không chỉ có sức khỏe thông thường mà phải mạnh và linh hoạt như Long (rồng), phải trắng (bạch) để
không bị ô nhiễm (tịnh) để không thối lui, không đứt gánh giữa đường và kiên
cường vượt qua vô vàn chướng ngại ngăn trở trên từng bước đường tu
tập.
Qua ý nghĩa tên của 5 nhân vật Tây Du
Ký, mỗi người Phật tử có thể rút
ra bài học cho mình để có thể dấn thân vào con đường Đạo, đó là:
-
Phải trang bị kiến thức cơ bản và đồng bộ về
Tam Tạng (Kinh – Luật – Luận).
-
Phải nắm vững và vận dụng thành thạo tính
KHÔNG thông qua Bát Nhà Ba La Mật Đa Tâm Kinh, tức dùng HUỆ để diệt
được SI.
-
Phải hiểu rõ và chế ngự được bản NĂNG của
mình (lục căn, lục thức) không để bị
dính mắc vào lục trần mà phát sinh mộng tưởng điên đảo, tức trì
GIỚI và diệt được THAM.
-
Phải giữ được tâm TĨNH trong từng hơi thở, bước
đi, tức giữ được ĐỊNH để diệt
được SÂN.
-
Và điều kiện đủ là phải có đủ sức khỏe đảm
bảo quá trình tu GIỚI – ĐỊNH – HUỆ không bị gián đoạn ngăn trở.
Chỉ
có chuẩn bị được kỹ càng như thế mới, người Phật tử mới có thể
vượt qua khó khăn thử thách như
thầy trò Đường Tăng đã trải qua trong 5048 ngày (14 năm) với 81 kiếp
nạn để thành Phật.
.
Hy vọng vài ý kiến trên có thể giúp ích ít nhiều cho những người đọc truyện xem phim Tây Du Ký mà chưa
hiểu hết mục đích của tác giả Ngô Thừa Ân muốn nói gì với bản thân
mình.
Hà Nội 22/12/2013
Pháp Minh Khoa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét