Trần Thái Tông được giới Phật giáo tôn vinh
là “Bó đuốc Thiền tông” từ bao đời nay, vì ở cương vị Hoàng đế hay Thái thượng hoàng hoặc thiền gia chứng đạo, Trần Thái Tông vẫn luôn khát khao
thống nhất các thiền phái để hướng đến Phật giáo nhất tông cho
phù hợp với tình hình bối cảnh phát triển mới bấy giờ.
Chính ông là người chủ trương đặt nền móng cho
thiền phái Trúc Lâm ra đời, trên hết là hình thành đặc trưng tinh thần thiền học Phật giáo đời Trần được thể hiện qua những phương thức hành trì mang một bản sắc dân tộc Đại Việt.
1. Tinh
thần thiền học
Thiền phái Trúc Lâm ra đời dựa trên hai tiền đề xã hội
và tôn giáo hình thành trong hoàn cảnh lịch sử của nước nhà. Nhà Trần trong
buổi đầu mới thành lập, công việc cấp bách nhất đặt ra các nhà lãnh đạo tối cao
là xây dựng một ý thức hệ độc lập thống nhất hoàn toàn khác với phương Bắc. Họ
Trần lựa chọn Thiền tông làm ý thức hệ tiêu biểu, nhưng cần phải thay đổi một
vài nội dung cho phù hợp với thực bối cảnh xã hội Đại Việt bấy giờ. Thiền phái
mới được thiết lập nhằm bốn mục đích sau: 1/ Tự mình phân biệt với Thiền
tông ở Trung Quốc biểu lộ tính độc lập. 2/ Thay đổi một phần nội dung tiêu cực
và thân ngoại. 3/ Mục đích thống nhất ý thức hệ để tạo nên Phật giáo nhất tông.
4/ Khoác cho mình chiếc áo của một tôn giáo mới.[1]
Thực tế, tư tưởng lập Thiền phái mới được manh nha từ khi Phật giáo chủ trương
nhập thế. Với cái nhìn của một nhà chính trị, Trần Thái Tông càng cương quyết
thực hiện ý tưởng đó. Khi chấp nhận lời khuyên của Quốc sư Phù Vân như là quan
điểm chính trị phục vụ đạo pháp và dân tộc: “Phàm làm đấng quân nhân
thì phải lấy ý muôn thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tâm thiên hạ làm tâm của
mình” thì ý tưởng thống nhất các thiền phái thành “Phật giáo
Nhất tông” [2] là điều tiên quyết đới với sứ
mệnh quốc gia và cả đạo pháp. Dưới ảnh hưởng và uy tín của nhà vua vào thế kỷ
thứ XIII, ba Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường đã theo
thời gian dần dần sáp nhập và trở thành thiền phái Trúc Lâm duy nhất đời Trần.
Người khai sáng ra thiền phái Trúc Lâm là Trần Nhân
Tông, nhưng người có công đặt nền móng cho Thiền phái Trúc Lâm phát
triển từ mô hình tổ chức cho đến nội dung tu tập hành trì là Trần Thái
Tông. Ông đã nỗ lực công phu tu tập, đã trực ngộ bản kinh Kim Cương ở chỗ cốt
yếu: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Từ chỗ trực ngộ này,
Trần Thái Tông đã sáng tác bài “Thiền tông chỉ nam” có lẽ nhằm
trình bày sở đắc của mình trong quá trình nghiên cứu kinh điển Thiền tông.
Thực tế, toàn bộ sinh hoạt Phật giáo dưới thời
Trần Thái Tông là Phật giáo Thiền tông. Nó đáp ứng tinh thần dân tộc độc lập,
tự chủ trên mọi phương diện kể cả tín ngưỡng tâm linh. Việc Trần Thái Tông chấp
nhận lời khuyên của Quốc sư Viên Chứng trở về kinh đô Thăng Long để vừa làm
vua, vừa làm thiền gia, nhất là mong cầu thành Phật. Đây là sự lựa chọn đúng
đắn trước nhu cầu thực tiễn lịch sử thời đó. Lời khuyên của Quốc sư: “Trong
núi vốn không có Phật, Phật ở ngay trong lòng. Lòng lặng mà hiểu, đó chính là
chân Phật” được ông xem như là một cơ sở lý luận để xây dựng một quan
điểm mới về cái khả năng thành Phật với một tinh thần thiền học mà ông chủ
trương, nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn của một đất nước Đại Việt đang phát
triển. Phật giáo Thiền tông bấy giờ đã nhìn nhận đức Phật luôn hiện hữu ở trong
lòng, chỉ cần lòng lặng mà biết thì ai cũng trở thành Phật. Nói cách khác, ở
đâu có con người, ở đó có sự giác ngộ của chân tâm thường tịnh, có sự sinh hoạt
Phật giáo Thiền tông trong bất kỳ môi trường nào.
Chính hướng đi này, về sau Tuệ Trung Thượng sĩ và Trần
Nhân Tông đã khai mở dòng thiền Trúc Lâm phát triển, đi vào lòng dân tộc.
Chúng ta có thể dựa vào các thư tịch còn lại để hiểu rõ nội dung tư tưởng triết
lý dòng thiền Trúc Lâm, qua đó cũng thấy được sự xuyên suốt dòng mạch tư tưởng
Thiền tông Trúc Lâm thật là nhất quán. Trần Thái Tông viết “Thiền tông
chỉ nam”, “Kim cương Tam muội”, “Lục thời sám hối khoa nghi”, “Khoá hư lục”,
“Bình đẳng lễ sám văn”, “Thái Tông thi tập”; Tuệ Trung Thượng sĩ thì để lại “Thượng
sĩ ngữ lục”; Trần Nhân Tông trước tác “Thiền Lâm
Thiết chuỷ ngữ lục”, “Tăng già toái sự” và “Đại Hương Hải ấn thi
tập”, “Thạch thất mỵ ngữ” và một số thơ, phú khác…; Pháp Loa trước tác “Đoạn
sách lục”, “Tham Thiền chỉ yếu”; Huyền Quang với tác phẩm “Ngọc
tiên tập”, “Phổ tuệ ngữ lục”… Đáng tiếc, do nhiều nguyên nhân khách
quan khác nhau, chúng ta chỉ còn lại một số văn bản như bài tựa “Thiền
tông chỉ nam tự”, “Khoá hư lục”, “Thượng Trung Tuệ sĩ”, “Cư trần lạc đạo”, “Đắc
thú lâm tuyền đạo ca” và một số bài thơ, kệ, phú các bài giảng của các
Tổ sư Thiền phái này. Thông qua việc khảo sát các văn bản nói trên, chúng ta có
thể nhận định các vấn đề lý luận cũng như hành trì được đặt ra để lý giải và
thực nghiệm tâm linh của Thiền phái Nhất tông này, về cơ bản đều đồng nhất với
quan điểm tư tưởng Trần Thái Tông đưa ra trong “Khoá hư lục”.
Ngay trong bài “Niệm Phật luận”, Trần
Thái Tông đã phát biểu một cách dứt khoát “Thân ta tức là thân Phật,
không có hai tướng”. Tuệ Trung Thượng sĩ trong cuốn “Thượng sĩ ngữ
lục” cho rằng “Khi mê không biết ta là Phật”; Trần
Nhân Tông trong “Cư trần lạc đạo phú” thì tuyên bố:“Bụt ở
cong nhà,Chẳng phải tìm xa, Nhân khuấy bổn nên ta tìm Bụt, Chỉn
mới hay chính Bụt là ta”. Tại đây các nhà Phật học, các thiền sư chứng ngộ
đời Trần đã thẳng thắn tuyên bố Phật và chúng sanh không khác. Con người thật
của chúng ta là Phật. Còn con người mà chúng ta tưởng là thật với cái tâm vọng
động của tham sân si lại là con người giả. Mỗi người cần trở về với con người
thật. Đó chính là giá trị nhân sinh của một tinh thần thiền học như là lời giải
đáp tại sao chúng ta hiện hữu trên cõi đời này.
Tinh thần Thiền tông mà Trần Thái Tông chủ trương sẽ
cung cấp cho con người một lý tưởng, lẽ sống cao quý đủ để tạo một cảm hứng
sáng tạo, vươn lên không những cho một đời, mà nhiều đời, cho đến khi mỗi con
người đều trở thành một vị Phật. Sự thật thành Phật ở đây lại không gì khác là
nhận chân con người thật của mình, không ở đâu xa mà ngay chính cõi lòng. Khi
con người chấp nhận Phật tại tâm thì cũng có thể hiểu việc tìm Phật là tìm lại
bản tâm, tìm lại tấm lòng mình. Một quan điểm về đức Phật như thế đã tạo ra một
cái nhìn mới về bản chất bình đẳng của con người. Mọi người đều bình đẳng,
không phân biệt đẳng cấp, nam nữ, giàu nghèo. Do đó, mọi người phải biết sống
theo tinh thần Thiền tông:“Mạc vấn đại ẩn tiểu ẩn, hưu biệt tại gia xuất
gia. Bất câu tăng tục chỉ yếu biện tâm”(Không phân biệt là sống giữa đời hay
sống ẩn dật trong rừng, không phân biệt là tại gia hay xuất gia, tăng hay tục,
chỉ cốt biện tâm) để cùng nhau tu tập và xử lý các vấn đề cá nhân,
quốc gia, dân tộc thật chu toàn, như chủ trương vạch định.
Khi Quốc sư đưa ra quan điểm mới về Phật xuất phát và
hình thành từ con người: “Sơn bản vô Phật, duy tồn hồ tâm” tự
thân quan điểm này đã khẳng định tính bình đẳng giải thoát của con người trước
cuộc sống, đồng thời nó cũng đề xuất một thái độ sống để làm hoá hiện con người
thật, giác ngộ từ trong cuộc sống vốn không bình đẳng. Từ đây, một
nếp sống mới định hình trong sinh hoạt Phật giáo đời thường. Đã là người, nhất
là Phật tử thì không thể sống tách rời với những người xung quanh. Con người
phải tham gia và vận động vào các môi trường sinh hoạt thực tiễn dù là ở cấp độ
gián tiếp hay trực tiếp, tức sống theo tinh thần Phật giáo Thiền tông. Nói cách
khác, đời sống đạo yêu cầu con người tự nguyện xả bỏ những ham muốn cá nhân,
ngay cả cái thân ngũ uẩn giả tạm này. Nhìn từ góc độ quốc gia dân tộc thì đây
là lần đầu tiên trong lịch sử nước nhà, tư tưởng Phật tại tâm, tư
tưởng vô ngã được vận dụng vào đời sống trên nhiều lĩnh vực. Với một tinh thần
vô ngã của đạo lý Thiền tông, nhà vua đã biến những ý muốn của thiên hạ, tấm
lòng thiên hạ thành những ý muốn, những tấm lòng cao đẹp của sự giác ngộ chân
tâm thường lạc.
Nói như Alexis Carrel, con người luôn đối diện ba nhu
cầu cơ bản mà theo ông gọi là ba quy luật nhân sinh (Trois lois fondamentales
de la vie humaine). Đó là nhu cầu sinh tồn (sống, hoạt động tâm sinh tâm lý…),
nhu cầu truyền giống (tình yêu, hôn nhân, gia đình …), nhu cầu thăng tiến của
tinh thần (suy nghĩ, nghiên cứu, sáng tạo, tu tập…). Bằng trực cảm tâm linh,
Trần Thái Tông đã nhìn nhận vấn đề với tất cả sự trải nghiệm của đời mình. Qua
các bài viết về trong Lục thời sám hối khoa nghi, ý
muốn cá nhân nếu không được chuyển hoá thì thật đáng sợ trước các vấn đề con
người giáp mặt.
Ngay cả ba nhu cầu sinh tồn của con người, có bao
nhiêu vấn đề cần đặt ra trong cuộc sống mà tự thân phải giải quyết. Là bậc đế
vương, Trần Thái Tông cũng phải đối diện biết bao vấn đề chướng ngại, kết quả
là phải tự chiến thắng mình. Trong bài tựa “Lục thời sám hối khoa nghi”,
nhà vua đã viết khá cụ thể về mình khi phải trải nghiệm qua các ham muốn và
sống với tinh thần vô trước, không hệ lụy các dục ở đời: “Phân hoa du ư
ngoại; Thị dục cổ ư nội. Khẩu yếm tư vị; Thân quải kim châu. Thị thính dịch ư
sắc thanh; Cư xử an ư đài tạ. Hựu huống thế tự kiêu ly; Nhân pháp suy mạt. Học
giả ngoan cổ; Luy bạc thiện căn. Nhật tắc căn trần phân xúc, nghiệp võng cầu
khiên; Dạ tắc thụy cái tế phú, lãn kết triền phọc. Nhật dạ phan duyên, mạc phi
cấu hạ chiêu hấn chi cửu.” (Phồn hoa cám dỗ bên ngoài; Thị dục xé
vò trong dạ. Miệng chán cao lương; Mình đầy vàng ngọc. Mắt tai tôi tớ sắc
thanh; Aên ở yên trong đài tạ. Lại nữa, thói đời khinh bạc, nhân pháp suy vi,
kẻ theo học thì bướng gàn mù quáng, khinh rẽ thiện căn. Ngày thị bụi bặm va
chạm, lưới nghiệp vấn vương; Tối thì màn ngủ lấp che, dây trời trói buộc. Ngày
đêm bám víu, đó chẳng phải cái lỗi gây ra tai họa và chuốc lấy hiềm khích hay
sao?) [3] .
Mỗi cá nhân đứng trước các nhu cầu, cần phải có thái
độ tỉnh thức mới bước ra khỏi sự vây hãm của sáu trần. Đơn cử như chuyện ăn
uống, mỗi người cứ ngỡ rằng mình sinh ra không phải chỉ để ăn mà sống mà thực
chất sống để mà ăn. Chính tự thân luôn muốn thông qua cái ăn để thoả mãn những
ý muốn đã làm khốn khổ biết bao nhiêu nhân mạng chúng sanh. Lục thời
sám hối khoa nghi mô tả thật hãi hùng về ham muốn cái ăn như sau:“Thần
triêu tố thiện, phạn thiếu thuỷ đa; Chân tự bệnh nhân, cưỡng san dược chúc. Cao
chi mãm mục, đàm tiếu hân hân; Tửu khuyến thực hành, noãn lai lãnh thoái. Diên
tân, đãi khách, giá nữ hôn nam, sát hại chúng sanh, giai do tam tốn.” (Buổi
sớm ăn chay, cơm ít nước nhiều; khác chi người ốm, cháo thuốc gắng xong. Mỡ
màng đầy mắt, cười nói ran ran, rượu chuốc cơm mời, nóng thay nguội đổi. Bày
tiệc đãi khách, dựng vợ gã chồng, giết hại chúng sanh, vì ba tấc lưỡi) [4] .
Thực tế, ý muốn cá nhân chưa dừng lại chỗ đó. Tài sản,
tiền bạc, danh vọng, người đẹp, chức quyền, địa vị, tình cảm…không có cái gì
hiện hữu trên cuộc đời mà lại người ta ham muốn. Tất cả đều do tâm ý con người
có chứa các hạt giống tham sân si khởi lên, tạo ra tội lỗi không lường. Mỗi cá
nhân tẩy rửa các ham muốn qua việc sám hối sáu thời thì sẽ tác động đến đời
sống người đó, đồng thời lan toả vào gia đình và xã hội. Đây là thái độ sống
khởi đầu bằng giáo dục tự thân, từng bước hoàn thiện nhân cách, sau đó đi vào
con đường tu đạo hướng thượng, thoát ly sinh tử mà ai cũng thể làm được, như Thiền
tông chỉ nam tự nói: “minh sinh tử chi tiệp kính giả”.
Theo tinh thần này, vấn đề là phải lưu tâm khi
hướng đến sự giác ngộ của con người là “sinh tử”. Con người phải
vượt thoát sinh tử ngay trong đời sống thực tiễn. Cần có nếp sống đúng chánh
pháp, mà trước tiên phải biết sống có khuôn mẫu trong xã hội ổn định và thanh
bình. Vì thế, nhà vua đã tự xem mình là người có trách nhiệm với Phật giáo đồng
thời có trọng trách đối với đời sau để nền giáo lý Phật đà được truyền bá rộng
rãi. Thực tế, Trần Thái Tông cũng nói rõ quan điểm của mình khi thực hiện hai
nhiệm vụ đó cùng một thời gian vừa nêu trong khi viết Thiền tông chỉ
nam và Kim cương tam muội chú giải. Đó là“Không riêng
để chỉ ra lỗi mê cho đời sau, mà còn muốn tiếp mở mang công nghiệp
của các thánh nhân thuở trước” [5] .
Kinh Kim cương là bản kinh vô cùng quan trọng đối với Phật giáo
Thiền tông Việt Nam từ xưa đến nay. Chủ trương kinh này là nói tinh thần vô
ngã, tất cả các pháp là Phật pháp. Điểm bừng sáng tâm đắc của nhà vua ngộ kinh
này là “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”. Do bản thân không có nơi
trú chỗ nào, nên mới trụ được trên mọi ý muốn và tấm lòng của thiên hạ. Như
thế, kinh Kim cương trở thành cơ sở lý luận phát triển cho các
hoạt động Phật giáo Thiền tông phục vụ cuộc sống mọi người. Trần Thái Tông đã
chọn thêm bản kinh Kim cương tam muội chú giải để có đủ cơ sở
lý luận giải quyết các vấn đề được đặt ra vào giai đoạn đó. Nội dung tinh thần
Thiền học Trần Thái Tông kiến giải có chịu sự ảnh hưởng của hai bản kinh này.
Kinh Kim cương nói cho đủ là Kim cương Bát nhã ba la
mật đa kinh, thuộc văn hệ Bát nhã, hiện còn trong Đại
tạng kinh chữ Hán mang ký hiệu ĐTK 235.8. Còn Kim cương tam
muội là bản kinh mang ký hiệu ĐTK 273. Bản kinh này cung cấp một cơ sở
lý luận giúp chúng ta giải thích vì sao Phật giáo Thiền tông có thể đưa mọi
người đi đến sự giác ngộ.
Điểm quan tâm của các nhà Phật học đời Trần là tinh
thần bản kinh đề cập đến việc mọi người đều bình đẳng trước sự giác ngộ. Bất cứ
ai đều có thể trở về bản tiùnh thanh tịnh để giác ngộ giữa cuộc đời. Nhưng khả
năng đó khó thành hiện thực vì con người thường bị bụi bặm phiền não bám vào mà
thuật ngữ nhà Phật gọi là “khách trần phiền não”. Thực chất
việc sống đạo là trở về bản tính thanh tịnh, vốn bị che lấp bởi các khách
trần phiền não. Con người cần phải có thái độ sống vượt thoát bằng những phương
thức hành trì thiền định khiến bụi bặm phiền não không thể đeo bám. Dù sống
trong môi trường nào, ai cũng có thể trở về chơn tâm, giải thoát. Tinh thần “Ưng
vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” sẽ cực kỳ có tác dụng, do không có chỗ mà
sinh tâm, tâm con người mới thanh thịnh. Nói theo tinh thần kinh Kim
cương tam muội, Đại tạng kinh, ĐTK, 273.9. 370b4 -11 thì bản tính tự
tâm vốn ngộ, không còn sự chấp thủ nào cả:“Người Bồ tát như thế thì không
trụ vào hai tướng, tuy không xuất gia mà không trụ tại gia, tuy không pháp
phục, không giữ pháp phục, không giữ đủ giới ba la đề mộc xoa, không vào Bồ
tát, nhưng vẫn có dùng tự tâm vô vi mà tự tứ để đạt quả thánh, không trụ nhị
thừa, mà đi vào con đường Bồ tát, về sau nhất định khắp nơi sẽ thành Phật
Bồ đề. Bồ tát Đại Lực nói “Người như thế Phật không thể nghĩ bàn. Chẳng xuất
gia mà không phải chẳng xuất gia. Vì sao vậy? Họ đã vào Niết bàn, mặc áo Như
Lai, ngồi toà Bồ đề. Người như thế, đến cả Sa môn cũng phải cung kính cúng
dường.”
Tinh thần này đã tác động mạnh vào tâm thức của Trần
Thái Tông trong việc đề ra các chủ trương xây dựng đất nước Đại Việt. Tại đây,
chúng ta đã có câu trả lời, tại sao nhà vua viết chú giải bản kinh này. Nhà vua
thực hiện chủ trương này một cách thành công khi ông tuyên bố: “Mạc vấn
đại ẩn tiểu ẩn, hưu biệt tại gia xuất gia, bất câu tăng tục, chỉ yếu biện tâm”
(Chẳng ở nơi thành thị, phố phường đông đúc, chẳng phải nơi khu rừng ẩn dật,
không phân biệt tại gia xuất gia, chẳng nề tăng tục, chỉ cốt tỏ lòng). Vấn
đề cốt lõi đời sống Phật giáo, theo nếp sống Thiền là cần phải xử lý tâm “biện
tâm”, không phân biệt đối tượng đó là ai trong đời sống thực tiễn.
Thực chất, tâm vốn thanh tịnh, trong sáng, không bị
vẫy đục. Thế nhưng, trong đời sống hàng ngày thì vô số khách trần phiền não cứ
đeo bám tâm, chúng biểu hiện ra bên ngoài bằng các hành vi như bất thiện. Tội
lỗi và nghiệp quả đem lại cho mình và người khác thật là nhiều vô kể như “Lục
thời sám hối khoa nghi” mô tả. Thế nên, kinh Kim cương tam
muội mới đưa ra phương thức tu tập để tâm không còn bị các khách trần
bám víu, nghĩa là “chuyển chư tình thức nhập Am ma la” (Chuyển các tình
thức vào Am ma la) trở về bản tâm thanh tịnh.
Am ma la (Àmara Vijnàna) nói cho đủ là Am ma la thức. Kinh
điển Nguyên thuỷ chỉ đề cập đến sáu thức, nhưng các kinh Đại thừa thì nói tám
thức, ngoài sáu thức còn có thêm mạt na và a lại da
thức. Riêng kinh Kim cương tam muội thì đề cập thêm một
thức thứ chín là thức am ma la. Thức thứ chín cũng không ngoài thức
thứ tám. Theo như quan điểm kinh Lăng Già giải thích, thức thứ tám gọi làNhư
lai tàng, thức thứ chín là Không Như lai tàng. Như lai
tàng tức là kho của Phật. Thức thứ tám không có mất; vì nó chứa lẫn
lộn những chủng tử thiện ác nên nó đẩy đưa chúng ta đến các nơi theo nghiệp
chủng tử chứa trong nó. Con người cần chuyển hóa bằng cách tẩy rửa, loại trừ
các chủng tử để tàng thức được trong sạch. Tại đây, thức này
có tên là thức am ma la, tức là thức thứ chín. Nó còn có nhiều tên
gọi khác nữa: thanh tịnh thức, vô cấu thức, chân như thức, Như lai tạng thức hay
làbạch tịnh thức. Bạch là trắng, tịnh là sạch. Tuy thức am ma la có
nhiều tên, nhưng đều có nghĩa chung là thanh tịnh.
Thức thứ tám chứa các chủng tử cấu nhiễm gọi là tàng
thức; khi tẩy rửa, loại trừ chúng, gọi là am ma la thức. Hiểu
rõ như thế, mới thấy quan điểm “Chuyển các tình thức vào am ma la” là
đúng. Thức này tính bản nhiên thanh tịnh, là tính Phật của con người. Mọi cái
bụi bặm bên ngoài “khách trần” cần huỷ diệt, đừng cho chúng có
cơ hội xâm nhập vào cái tâm vốn thanh tịnh. Đây chính là quan điểm Kim cương
tam muội mà nhà vua chú giải: “Thâm tín chúng sinh không khác nhau về
chân tính, không một cũng không cùng, chỉ vì bị khách trần làm che lấp”.
Cuộc sống có rất nhiều sự biến động và con người cần
phải chủ động để loại trừ các khách trần. Không gì khác hơn là thực thi nếp
sống đạo theo tinh thần Thiền tông mà nhà vua đề ra với các phương thức hành
trì để xử lý tâm, “biện tâm”. Chính đặc trưng tinh thần thiền
học này, nó trở thành kim chỉ nam để Trần Thái Tông trong cương vị một nhà lãnh
đạo tối cao của nước Đại Việt, nhà lãnh đạo tôn giáo với tư cách là vị thiền
gia chứng ngộ giải quyết các vấn đề liên hệ cá nhân con người, gia đình, xã
hội, quốc gia, dân tộc. Hẳn nhiên, phương thức hành trì thiền nó không chỉ tồn
tại trong các ngôi chùa nguy nga tráng lệ mà có thể hoạt động ở bất cứ nơi nào
dù thành thị, nông thôn, chợ búa hay núi non hiểm trở, thậm chí nó còn phát huy
ngay giữa chiến trường để đối đầu với giặc Nguyên Mông. Với chủ trương Phật tại
tâm, không phân biệt tăng tục, nam nữ, bất cứ thành phần nào trong xã hội, ai
cũng có thể là thành viên của thiền phái, tuỳ theo căn cơ trình độ mà thực thi
phương thức hành thiền. Mục đích cuối cùng là mọi người dân thực hiện đúng nếp
sống đạo, hướng đến giải thoát giác ngộ ở một đất nước Đại Việt thanh bình.
2. Những phương thức hành trì tu chứng
Căn cứ vào những tác phẩm còn lại trong Khoá
hư lục như Phổ khuyến Phát Bồ đề tâm, Phổ thuyết Hướng thượng
nhất lộ, Niệm Phật luận, Thụ giới luận, Giới định tuệ luận, Tọa thiền luận, Tuệ
giáo giám luận, và Ngữ lục vấn đáp môn hạ, Niêm tụng kệ…, mỗi tác phẩm
như thế đều bàn đến những khía cạnh khác nhau về Thiền. Đặc biệt, các tác phẩm
ấy còn đề cập đến những phương thức hành thiền được hướng dẫn từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức tạp, hợp với từng căn cơ đối tượng tham thiền học đạo.
Những phương thức hành trì của Trần Thái Tông trình
bày trong Khoá hư lục mang một sắc thái riêng biệt của người
Việt mà ít thấy ở các dòng Thiền khác, mặc dù vua là người đắc pháp thiền với
thiền sư cư sĩ Thiên Phong từ Trung Hoa sang. Xuất phát từ
nhận thức về một cái thân phận bất an, dao động sợ hãi bởi các khách trần, con
người cần phải có phương thức loại trừ để thể nhập con đường thiền định.
* Phương thức đầu tiên là pháp môn niệm Phật.
Mục đích niệm Phật theo nhà vua là loại bỏ niệm xấu thay vào đó là nhớ nghĩ
niệm tốt. Niệm Phật ngõ hầu dập tắt ba nghiệp thân khẩu ý. Trong bàiNiệm
Phật luận, nhà vua viết:“Ư niệm Phật chánh thân đoan toạ, bất hành
tà hạnh, thị tức thân nghiệp dã. Khẩu tụng chân ngôn, bất đạo tà ngữ, thị tức
khẩu nghiệp dã. Ý tồn tinh tiến, bất khởi tà niệm, thị tức ý nghiệp dã” (Trong
lúc niệm Phật thân thẳng ngồi ngay, không làm việc tà, như vậy là tắt được
nghiệp thân. Miệng tụng lời chân chính, không nói điều xằng bậy, thế là tắt
được nghiệp miệng. Ý chăm chú ở sự tinh tiến, không nảy sinh ý nghĩ tà, thế là
tắt được nghiệp ý).
Công năng niệm Phật là thế, nhưng phương thức hành trì
của mỗi đối tượng dựa trên sự phân chia căn trí cao thấp. Ông cho rằng trong xã
hội có ba loại trí: thượng trí, trung trí, hạ trí, ứng với ba cách thức hành
trì niệm Phật. Cách thứ nhất dành cho bậc thượng trí là những người liễu ngộ,
tự thân biết tâm mình chính là tâm Phật, sống trong bụi trần và tâm không nhiễm
trần, không cần tu niệm thêm gì cả: “Thượng trí giả, tâm tức thị Phật,
bất giả tu thiêm. Niệm tức thị trần, bất dung nhất điểm. Trần niệm bản tịnh, cố
viết như như bất động, tức thị Phật thân. Phật thân tức ngã thân thị, vô hữu
nhị tướng; tướng tướng vô nhị, tịch nhiên thường tồn, tồn nhi bất tri, thị vi
hoạt Phật.” (Bậc thượng trí thì tâm tức Phật, không phải nhờ thêm sự tu hành. Ý
nghĩ là bụi trần không vướng một mảy. Ý nghĩ bụi trần vốn tịnh, cho nên nói như
như không động là thân Phật. Thân Phật tức là thân ta, không có hai
tướng. Tướng và tướng không phải là hai, lặng lẽ tồn tại hằng thường. Tồn tại
mà không biết, đó là Phật sống).
Cách thức thứ hai dành cho đối tượng có căn trí bậc
trung. Ngưới có căn trí bậc này thì phải huy động ý chí, dùng niệm thiện để đẩy
lùi các niệm ác. Phát huy sức mạnh các thiện niệm và triệt tiêu những nghiệp
bất thiện không cho chúng có cơ hội xuất hiện. Cuối cùng, họ cũng đạt được
trình độ như người có trí tuệ cao hơn: “Trung trí giả, tất tạ niệm
Phật, chú ý tinh cần, niệm niệm bất vong, tự tâm thuần thiện. Thiện niệm ký
hiện, ác niệm tiện tiêu. Aùc niệm ký tiêu, duy tồn thiện niệm. Dĩ niệm ý niệm,
niệm niệm diệt chi. Niệm diệt chi thì, tất quy chính đạo. Thường lạc ngã tịnh,
Phật chi đạo dã.” (Bậc trung trí ắt nhờ niệm Phật. Chú ý tinh cần, luôn niệm mà
không quên thì tâm mình ắt tự thuần thiện. Ý nghĩ thiện đã hiện thì ý nghĩ ác
sẽ bị tiêu tan. Ý nghĩ ác đã bị tiêu tan thì chỉ còn ý nghĩ thiện. Dùng ý nghĩ
mà ý thức thì mọi ý nghĩ đều bị diệt hết. Khi ý nghĩ đã bị tiêu diệt ắt trở về
chính đạo; lúc qua đời sẽ được niềm vui cõi Niết-bàn, Thường lạc ngã tịnh là
đạo của Phật).
Cách thức thứ ba dành cho người có căn cơ hạ trí. Đây
là thành phần đông nhất trong xã hội. Đối với những người này, tâm họ chỉ hướng
về nước Phật, mong sao thoát khỏi những bụi bặm ở đời này. Khi lâm chung lòng
thanh tịnh, thác sanh về Phật quốc: “Hạ trí giả, khẩu cần niệm Phật
ngữ, tâm dục kiến Phật tướng, thân nguyện sinh Phật quốc; trú dạ cần tu, vô hữu
thoái chuyển. Mệnh chung chi hậu, tuỳ kỳ thiện niệm đắc sinh Phật quốc; hậu đắc
chư Phật sở tuyên chính Pháp, chứng đắc bồ đề, diệc nhập Phật quả” (Kẻ hạ trí
miệng chuyên cần niệm Phật, lòng mong thấy hình tướng Phật, thân nguyện sinh ở
nước Phật, ngày đêm tu hành chăm chỉ, không thối chí thay đổi, như vậy đến khi
mệnh hết qua đời sẽ theo ý nghĩ thiện mà được sanh ở nước Phật; sau đó lĩnh hội
Chính pháp mà chư Phật nêu ra và chứng được Bồ đề cũng được Phật quả).
Trong ba cách thức niệm Phật, Trần Thái Tông đánh giá
cao phương thức hành trì niệm Phật sau cùng, vì nó được xây dựng trên một nền
tảng vững chắc, thích hợp với quần chúng. Ông khuyến cáo mọi người hãy bắt đầu
thực thi tẩy rửa thân tâm từ cách thức hành trì này, hai cách kia nói thì dễ
nhưng thực sự đòi hỏi căn duyên cao, không phải ai cũng thực hiện được. Niệm
Phật trở thành phương thức tu tập loại bỏ tập khí cấu nhiễm, hướng đến thuần
thục để tâm trở nên tịch tịnh: “Kim chi học giả, ký thụ nhân thân, tam
nghiệp tình hữu, nhi bất dĩ niệm Phật cầu sinh Phật quốc giả, bất diệc nan hồ?
Như dục niệm Phật, tức dĩ hạ trí vi tiên. Hà giả? Vị hữu chú ý cố dã. Thị như
tác tam tằng chi đài nhi bất dĩ hạ tằng vi tiên, vị chi hữu dã” (Nay kẻ tu hành
đã nhận lấy thân, ắt ba nghiệp đều có. Thế mà không niệm Phật để cầu sinh vào
nước Phật chẳng cũng khó sao. Như muốn niệm Phật, hãy lấy cách của hạ trí làm
đầu. Sao vậy? Bởi vì có sự chú ý mà thôi. Ví như làm một toà lâu đài ba tầng mà
không làm tầng dưới trước, đó là điều chưa từng có vậy).
Nhà vua thật có lý khi chủ trương nhắm vào thành phần
đông nhất của xã hội là bậc hạ trí. Đối tượng để tu tập là nhớ nghĩ về Phật.
Tập trung suy nghĩ vào một đối tượng, một điểm là một hình thức “chỉ”,sâu
hơn nữa thấy rõ tâm thức ấy biểu hiện thành những hành động gì, hoạt động ra
sao, có sai trái thì phải sám hối…Đây là một hình thức “quán”. Khi
đã quán thấy rõ như thật sự vật, tỉnh thức với những việc sai trái thì sẽ điều
chỉnh với tất cả niệm…Có thể nói, đó là một phương thức, một hình thức “chỉ
quán song tu”, thực chất là những bước đi đầu tiên của thiền. Sự vận
dụng pháp môn niệm Phật truyền thống vào việc thực thi hành thiền, chứng tỏ nhà
vua khéo léo hướng quần chúng bước vào con đường thiền đi từ thấp đến cao, chú
tâm hướng nội, tìm lại Phật thân. Đây là kết quả biến đổi từ một nội dung mang
màu sắc tịnh độ sang sắc thái “thiền” mà nhà vua cố tình chủ
trương, nhằm xây dựng và phát triển dòng thiền Trúc Lâm.
Chủ trương này đã thành hiện thực qua việc các thư
tịch cổ còn lại minh chứng. Trong Thượng sĩ ngữ lục của Trần
Tung tờ 34b4-6 có ghi lại một bài thất ngôn tứ tuyệt Dạy cho những
người tu Tây phương: “Thân báu Di Đà tại đáy lòng, Đông tây nam bắc pháp thân
chung, Cả trời chỉ thấy vừng trăng quạnh, Đêm lắng vào thu vũ trụ trong” [6] .Đến đời
Trần Nhân Tông, phương thức niệm Phật theo quan điểm thiền mà Trần Thái Tông
chủ trương, được ghi lại trong Cư trần lạc đạo phú, ở hồi thứ hai:“Di
Đà là tính sáng soi, Mựa phải nhọc tìm về Cực lạc”. Rõ
ràng, cách lý giải tư tưởng niệm Phật của Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ,
Trần Nhân Tông trở thành phổ biến ở các thiền đường Việt Nam, mang phong thái
thiền. Chủ trương như thế hợp với mọi tầng lớp trong xã hội, cứ lấy người hạ
trí làm chuẩn “miệng siêng niệm lời Phật, lòng muốn thấy hình tướng
Phật, thân nguyện sinh ở nơi nước Phật” thì ai cũng có thể tẩy rửa và loại trừ
các niệm ác và cuối cùng đạt đến vô niệm”.
Không còn gì để bàn luận nữa, vô niệm là phạm trù lớn
của Thiền tông mà bất cứ hành giả nào cũng phải trải nghiệm chứng đạt. Nói như
ngài Vĩnh Gia Huyền Giác (665-713) trong “Chứng đạo ca” là“Thuỳ
vô niệm, thuỳ vô sanh”, Trần Thái Tông cố tình trích dẫn để kết thúc
phần nhập đề của bàiNiệm Phật luận. Phương thức niệm Phật theo tinh
thần Thiền tông từ đó trở thành phương thức hành thiền. Niệm Phật - Tịnh độ
chính thức đi vào Thiền tông và phát triển cho đến ngày nay trong các thiền
đường Việt Nam.
* Phương thức thứ hai là lục thời lễ sám. Đây
là một trong những phương thức hành trì được Trần Thái Tông diễn dịch theo
phong cách thiền. Theo Bình đẳng sám văn tự viết: “Lễ
pháp thân vô tướng chi thể. Đáo giá lý nhập, tự tha thụ dụng giao
tham; hướng ná biên cầu, diện mục mãn can tự hiện” (Lạy là lạy cái thể vô tướng
của pháp thân. Lạy được như thế thì cái thể tự thọ dụng giao tham, đến bờ bên
kia thì mặt mũi xưa nay tự nhiên hiển lộ).[7] .
Như vậy, sự lễ lạy bái sám theo Lục thời sám
hối khoa nghi có giá trị tẩy rửa các tội lỗi, đưa con người trở về bản
tâm thanh tịnh. Do căn tánh con người khác nhau, tuỳ theo bệnh mắc phải mà cho
thuốc. Theo nhà vua, phương thức sám hối cũng có chức năng tẩy rửa các khách
trần cấu bẩn, huỷ diệt ác nghiệp tích luỹ nhiều đời, nhiều kiếp. Nó có một vai
trò quan trọng trong đời sống tu tập mỗi cá nhân đối với việc thăng hoa: “Lợi
xuyên chi lai vãng giả, châu xa dã, địch thân tâm chi trần cấu giả, lễ sám dã.
Dục địch thân tâm nhi bất dĩ lễ sám tắc hà dị ư dục lợi lai vãng nhi bất dĩ
châu xa giả hồ? Thị tri lễ sám kỳ dụng đại hỹ. Cố Đại tập kinh vân: “Như bách
niên cấu y, khả ư nhất nhật cán linh tiên tịnh”. Như thị bách thiên kiếp trung
sở tập chư bất thiện nghiệp, dĩ Phật lực cố, thiện thuận tư duy, khả ư nhất
nhật thời tận năng tiêu diệt dã” (Tiện lợi cho việc đi lại dưới sông trên bộ là
xe với thuyền; rửa sạch bụi nhơ trên mình, trong dạ là lễ sám hối thì khác nào
muốn tiện lợi cho việc đi lại mà không dùng xe và thuyền. Thế mới biết công
dụng của lễ sám hối thật lớn lao! Cho nên, kinh Đại tập có câu:“Như chiếc áo
bẩn hàng trăm năm có thể giặt sạch trong một ngày”. Như thế, ác nghiệp tích tụ
hàng trăm nghìn kiếp, nhờ sức Phật và sự tư duy thuận tiện mà có thể tiêu trừ
trong một ngày một phút) [8] .
Bái sám là hình thức tu tập có từ lâu trong các ngôi
chùa Việt Nam. Điều đáng nói, là nhà vua vận dụng phương thức tu tập này vào
đời sống thiền định. Việc biên soạn ra Lục thời sám hối khoa nghinhằm
ứng dụng pháp môn này theo chủ trương Thiền phái.
“Sám” là
chữ phiên âm từ tiếng Phạn Ksama, nghĩa đen “chịu đựng” [9] , nghĩa
là muốn yêu cầu người mình xúc phạm đến, chịu đựng những lỗi lầm do mình gây ra
và xin tha thứ cho những xúc phạm đó.“Hối” là bản thân tự nhận thức
những sai lầm, những xúc phạm đó và tự kiên quyết thay đổi hành vi để chúng
không bao giờ xảy ra nữa. Sám hối như thế là một hành động tự giác, trong thiền
gọi là tự phản tỉnh, tự xem xét bản thân có gây lỗi lầm, hay làm thương tổn đến
người khác và môi trường sống xung quanh để từ bỏ.
Không có phương thức gì hữu hiệu hơn là mọi người hãy
thực hành khoa nghi sám hối. Nhà vua tự chia một ngày đêm ra làm sáu buổi:
sáng, trưa, chiều, tối, đêm, sớm. Mỗi buổi xem xét, sám hối một căn. Ông chủ
trương “có tội thì nên sám hối, bằng không sám hối thì tội lỗi càng
sâu”.Với tất cả ý nghĩa cao cả đã trình bày trên, nghi thức sám hối sáu căn
được Trần Thái Tông biên soạn và phổ biến thực hành theo sự phân bổ sáu thời
tương ứng cho sáu giác quan. Thời buổi sáng dành cho việc sám hối do nhãn
căn (mắt) đem lại, thời trưa dành cho nhĩ căn (tai),
thời chiều dành cho tỷ căn (mũi), thời đêm dành cho thiệt
căn (lưỡi), thời nửa đêm dành cho thân căn (thân), và
thời khuya dành cho ý căn(ý). Nghi thức sám hối được
vua biên soạn theo trình tự có kết cấu chặt chẽ, súc tích, ngắn gọn: Có 11 bước
cho buổi lễ đầu:1. Đọc kệ cảnh sách khuyên răn mọi người. 2. Lễ đọc văn dâng
hương. 3. Đọc kệ dâng hương. 4. Đọc kệ dâng hoa. 5. Đọc lời tâu bạch. 6. Đọc
văn sám hối tội căn do mắt. 7. Dốc lòng khuyến thỉnh. 8. Dốc lòng tuỳ hỷ. 9.
Dốc lòng hồi hướng. 10. Dốc lòng phát nguyện. 11. Đọc kệ vô thường buổi sáng.
Đến thời lễ sám buổi trưa, Trần Thái Tông có thay đổi
chút ít: 1. Lễ đọc dâng hương buổi trưa. 2. Kệ dâng hương. 3. Kệ dâng hoa. 4.
Lời tâu bạch. 5. Lời sám hối tội căn do tai. 6. Dốc lòng khuyến thỉnh. 7. Dốc
lòng tuỳ hỉ. 8. Dốc lòng hồi hướng. 9. Dốc lòng phát nguyện. 10. Đọc kệ vô
thường buổi trưa. Đến Thời lễ sám hối buổi chiều cũng tương tự: 1. Lễ đọc văn
dâng hương buổi chiều. 2. Kệ dâng hương. 3. Kệ dâng hoa. 4. Lời tâu bạch. 5.
Lời sám hối tội căn do mũi. 6. Dốc lòng phát nguyện. 7. Đọc kệ vô thường buổi
chiều. Riêng buổi lễ ban đêm, nửa đêm, về khuya thì ngay buổi lễ sám đêm, trước
bước đọc văn dâng hương, có thay đổi hai bước:1. Kệ khuyên chúng vào lúc hoàng
hôn. 2. Kệ tám khổ. 3. Văn dâng hương đêm. 4. Lời tâu bạch. 5. Lời sám hối tội
căn do lưỡi. 6. Dốc lòng phát nguyện. 7. Đọc kệ vô thường đêm. Các lễ sám nửa
đêm, khuya cũng thực hiện những bước tương tự, chỉ trừ hai bước đầu.
Nghi thức sám hối nói trên có nội dung tác động chuyển
đổi tâm lý, từ rong ruỗi theo sáu trần, đi đến sự tỉnh thức và cuối cùng là
loại trừ các phiền não. Cứ như thế, trải qua sáu thời khoá trong mỗi ngày đêm,
con người trở nên giác tỉnh vô thường, vô ngã với sắc thân thường hữu. Con
người lễ sám ở đây không phải là lễ sám trước đức Phật thờ tự trong mỗi ngôi
chùa, mỗi gia đường tôn nghiêm, mà thực sự lễ lạy bái sám cái thân mình, tức là
ông Phật ở cõi lòng “Phật thân tức Ngã thân”, “Phật thân
tức ngã thân thị” và lễ Phật ở đây là “lễ Pháp thân vô tướng
chi thể”, nghĩa là lễ chân lý cuộc đời theo như Lục thời sám
hối khoa nghi diễn bày.
* Phương thức thứ ba là phương thức hành thiền.
Bước chân đầu tiên của việc thực tập thiền định là phải điều chỉnh tâm ra khỏi
vùng tâm lý rối loạn của những định kiến sai lầm, lối tư duy võ đoán, tác nhân
bên ngoài thường xuyên kích động và quấy nhiễu tâm thức. Tâm thức con người trở
nên lắng đọng, đi vào chánh niệm tỉnh giác nhằm tẩy rửa các hạt giống chứa sự
nhiễm ô, thu góp toàn bộ năng lực để chuyển hoá thân tâm, bước sâu vào con
đường thiền định.
Thông qua các văn bản như Giới định tuệ luận,
Thụ giới luận, Toạ thiền luận, Tuệ giáo giám luận đủ minh chứng con
đường thiền định của nhà vua là hành trì giới định tuệ. Quán triệt tinh thần
này, nhà vua nói rõ “Phù học đạo chi nhân, duy cầu kiến tính. Tuy thụ
kỳ nhất thiết tịnh giới nhi vô toạ thiền tắc định lực bất sinh. Định lực bất
sinh tắc vọng niệm bất diệt, nhi dục kiến tính gải, bất diệc nan hồ” (Người học
đạo chỉ cốt thấy được bản tính. Tuy thụ hết mọi tịnh giới mà không ngồi thiền
thì định lực không sinh. Định lực không sinh thì ý nghĩ sai lầm không diệt
được, thế mà muốn thấy bản tính chẳng cũng khó sao) [10] .
Như vậy, giữa giới định tuệ có một mối liên hệ hữu cơ.
Nó là quy trình biện chứng giải thoát mà Thái Tông giải trình trong Tuệ
giáo giám luận “Phù tuệ giả sinh ư định lực. Nhược tâm định tắc tuệ
giám sinh. Nhược tâm loạn tắc tuệ giám diệt. Diệc như đồng kính, tiên giả ma
lung, nhiên hậu phương hữu quang tịnh minh chiếu. Nhược bất ma lung tắc đài
ngân hôn cấu. Ký dĩ hôn cấu, quang hà dĩ sinh? Cố tri tuệ do định hiện, định ư
tuệ sinh, định tuệ tương y, lưỡng vô di nhất.” (Nói chung tuệ sinh ra từ định
lực; nếu như tâm định thì gương tuệ sinh; nếu tâm loạn thì gương tuệ mất. Cũng
như chiếc gương đồng, trước hết phải lau chùi mới trong trẻo chiếu sáng. Nhược
bằng không lau chùi thì rêu bụi mờ tối. Đã mờ tối thì ánh sáng sinh ra sao
được? Cho nên biết rằng tuệ xuất hiện từ định; định này sinh từ tuệ. Định và
tuệ nương nhau, không bỏ sót một bên nào) [11] .
Mỗi khi tuệ giác bừng khởi là lúc con người thấy rõ
thực tướng các pháp, trong đó bao gồm bản chất, mà thuật ngữ thiền tông gọi là “kiến
tính” (thấy tính). Con người do thấy tính mà giác ngộ thành Phật. Xem ra,
con đường thiền định là con đường trở về thực tại, thấy rõ bản tính của mình.
Thế nên, Trần Thái Tông còn đưa ra những thoại đầu thiền để thực nghiệm. Thoại
đầu là một câu nói hay một mẫu đối thoại có tác dụng thúc đẩy phát khởi sự đạt
ngộ của thiền giả. Nó có thể là một câu trích dẫn kinh điển Phật nói, một lời
gợi ý của tổ sư hay lời đối đáp của vị thiền sư. Theo Nguyễn Lang, chính vua đã
từng tham thủ thoại đầu bất hủ của của thiền sư Lâm Tế với đề tài “Vô
vị chân nhân”. Thoại đầu đó như sau: “Này quý vị, trên đống
thịt đỏ au kia, có một con người thực không vị trí, hay ra vào trước mặt quý
vị. Nếu quý vị không biết con người thực không vị trí ấy là ai thì chỉ cần hỏi
lão tăng đây.”Có một vị tăng khác hỏi “Xin cho biết con người thực
không có vị trí ấy là gì?” Thiền sư liền đánh vị tăng ấy, và nói “Con người
thực không vị trí là cái cứt khô gì đâu?” [12] .
Trần Thái Tông đi tìm con
người thực này. Đó chính là tự tính, là thể kim cương bất hoại. Ông diễn giải đống thịt đỏ au đó là sắc thân con
người mà chúng ta đã có dịp phân tích bài Phổ thuyết Sắc thân.Sắc thân đó chính là con người giả, do năm uẩn hợp thành. Còn con
người thực ở đâu? Thái Tông đã bừng ngộ từ việc tham cứu thoại đầu đó.
Nguồn: http://www.phattuvietnam.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét