VẤN: Con nghe
quá nhiều pháp môn và những cách giảng dạy về Phật giáo của đủ thứ kể cả các vị
xuất gia và Phật tử tại gia. Giữa rừng pháp môn và những lời giảng pháp như
vậy, con không biết đâu là đúng, đâu là sai mà thực hành. Xin Sư cho con biết
mình lấy gì để có thể so sánh và đối chiếu là những lời giảng ấy đúng với chánh
pháp của Đức Phật? Con nên dựa vào đâu để phân biệt tạo chánh kiến cho chính
mình giữa rừng pháp môn mà không bị cuốn theo và đi sai con đường tu hành? Con
xin cảm ơn Sư.
Nguồn: http://linhsonphatgiao.com
ĐÁP:
Sau Phật nhập diệt 1000 năm, mỗi môn
phái được sáng lập để truyền bá giáo lý Phật đi khắp trong nhân gian, mỗi môn
phái được sáng lập đều có chánh kiến, tư duy riêng, tôn chỉ riêng dành cho môn
đệ tu tập. Các bạn nên dựa vào kinh Phật để nghe thuyết giảng tu hành, làm sao
cho tâm các bạn an lạc, dứt ngã mạn, tham sân si phiền não, giải thoát mọi
phiền trược.
Thường bạn nghe pháp, mà trong đó người
giảng thường hay chê khen pháp nầy pháp kia, ông nầy chánh, ông kia tà… là
không phải pháp Phật rồi đấy.
Người xưa có câu: “Y kinh diễn nghĩa tam
thế Phật oan - Ly kinh thuyết tự tức thành ma thuyết”, nghĩa là:
Người thuyết giảng đem kinh ra dẫn chứng
thì oan cho ba đời chư Phật, vì trong đời thuyết giáo của các đức Thế Tôn, các
Ngài không có nói lời nào cả - người giảng kinh thuyết pháp mà không y cứ vào
kinh Phật để giảng giải thì dễ bị sai lầm, đồng với ma thuyết.
Giáo pháp “tứ y” rất quan trọng với sứ
giả Như Lai, thuyết pháp gặp thời điểm nào y cứ vào kinh nào, thời điểm nào
không y cứ vào kinh nào, hoặc cả hai…
Các bậc đạo sư xưa từng giáo hóa đồ
chúng, có khi các ngài dạy chúng không bằng một lời nào cả mà chúng vẫn học
được, như Bồ Đề Đạt Ma thì khuyến giáo “y giáo biệt truyền bất lập văn tự”
Tổ sư Đạt Ma từ xa quán đất này có căn
khí Đại Thừa, bèn vượt biển đến Trung Quốc, chuyên truyền Tâm ấn, khai thị cho
kẻ mê, chẳng lập văn tự, trực chỉ nhơn tâm, kiến tánh thành Phật” (Bích nham
lục)
Nói “Chẳng lập văn tự”, vì văn tự phải
nương bộ não suy nghĩ, suy nghĩ thì nương nơi nhất niệm vô minh; nhất niệm vô
minh hư huyễn chẳng thật, nên suy nghĩ văn tự cũng hư huyễn chẳng thật. Do hư
huyễn chẳng thật gọi là tương đối, tương đối thì có sanh có diệt, chẳng thể
hiển bày tuyệt đối chẳng sanh diệt của bản thể, vì văn tự chẳng thể hiển thị
Phật tánh, nên nói chẳng lập văn tự.
Phật Thích Ca dùng lời nói văn tự để
hoằng giáo pháp là do sự bất đắc dĩ, nên thí dụ như ngón tay chỉ mặt trăng, vừa
thuyết liền phá, Kinh Niết Bàn nói: “Bắt đầu từ Lộc Uyển, cuối đến sông Bạt Đề,
khoảng giữa 50 năm, chưa từng thuyết một chữ” là vậy.
Đấy là việc của chư Phật, Bồ tát, hàng
Thanh văn, phàm phu không thể sánh kịp. Trong đời làm con Phật của Bạn, khi đi
nghe thuyết pháp bất cứ nơi nào, dù đó là Mỹ châu hay Á châu, Âu châu, bạn tu
học bốn pháp như dưới đây:
Y pháp bất y nhân, nghĩa đen là y theo giáo pháp, chẳng y
theo theo người. Theo cách giải thích thông thường, Phật pháp là chân lý, quý
giá và khó gặp, vì thế không nên đối chiếu, tỵ hiềm nơi tư cách người nói pháp
để rồi bỏ lỡ cơ hội nghe pháp, tự thân mất sự lợi lạc. Cứ y theo giáo pháp của
Phật mà tu hành, người nói ra giáo pháp ấy tốt hay xấu không quan trọng. Tuy
nhiên, kinh Đại Bát Niết Bàn nói cụ thể hơn về vấn đề này, y pháp bất y nhân có
nghĩa là y chỉ vào Pháp tánh tức Phật tánh, Như Lai vì pháp tánh thường trụ,
không y chỉ vào người (nhân) vì là hữu vi tức vô thường, sanh diệt.
Y nghĩa bất y ngữ, tạm dịch là y theo nghĩa lý, không y
theo ngôn ngữ văn tự. Phật thuyết pháp với ý nghĩa sâu xa nhằm biểu đạt và thể
nhập chân lý. Ngôn ngữ, văn tự chỉ là công cụ diễn đạt Trung đạo đệ nhất nghĩa,
giúp người tu nhận ra chân lý để hành trì và thân chứng, bởi thế không nên bám
víu và quá cố chấp vào văn tự.
Y trí bất y thức, nghĩa là y theo trí tuệ, không y theo
vọng thức phân biệt. Chỉ có trí tuệ mới nhận chân được chân lý, thực tại còn vọng
thức là thấy biết theo nghiệp, có tính tương đối và đa phần sai lầm. Chỉ có trí
tuệ mới đầy đủ công năng quét sạch phiền não, thanh tịnh ba nghiệp. Còn thức
dẫu thông minh, nhạy bén và lanh lợi đến đâu đi nữa cũng là sanh diệt, hư vọng
và không đủ sức giác quán để chuyển hóa, diệt trừ phiền não. Vì vậy, “duy tuệ
thị nghiệp” chính là phương châm tu học của hàng đệ tử Phật.
Y liễu nghĩa kinh bất y bất liễu nghĩa
kinh, có nghĩa là
y theo các kinh điển liễu nghĩa, chẳng y theo các kinh điển không liễu nghĩa.
Kinh điển được Phật tuyên thuyết tùy căn cơ chúng sanh nên có cao thấp, khác
biệt. Dù mục tiêu cứu cánh vẫn là giải thoát sanh tử, song trên tinh thần
phương tiện thì những kinh điển thuyết minh về con đường thể nhập Nhân thừa,
Thiên thừa v.v… được gọi là kinh bất liễu nghĩa (chưa nói hết ý nghĩa thâm
diệu, toàn triệt của giáo pháp). Những kinh điển chỉ thẳng đến quả vị giải
thoát viên mãn (Phật quả) là kinh liễu nghĩa. Người tu hướng về Vô thượng Bồ
đề, tất nhiên phải y cứ vào kinh liễu nghĩa để hành trì nhằm thành tựu giác ngộ
rốt ráo, thành Phật.
Khi nghe pháp, Bạn đã hiểu và thực hành
về “tứ y pháp” chắc chắn các bạn không còn nghi ngờ chánh tà nữa đó các Bạn.
HT Thích Giác
Quang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét