Tìm kiếm

Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2013

Triết lý kinh Pháp hoa - Thượng tọa Thích Tâm Đức


Một bộ kinh Đại thừa Phật giáo – được dịch thành nhiều thứ tiếng, được nhiều học gỉa nghiên cứu, được tụng đọc bởi nhiều người ở các nước Đông Á và là nền tảng của nhiều tông phái Phật giáo nổi tiếng ở Trung Hoa và  Nhật Bản – đó là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh hay nói ngắn gọn là Pháp Hoa.
Một bộ kinh Đại thừa Phật giáo – được dịch thành nhiều thứ tiếng, được nhiều học gỉa nghiên cứu, được tụng đọc bởi nhiều người ở các nước Đông Á và là nền tảng của nhiều tông phái Phật giáo nổi tiếng ở Trung Hoa và  Nhật Bản – đó là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh hay nói ngắn gọn là Pháp Hoa.
Kinh Pháp Hoa chứa đầy những khái niệm, hình ảnh, hoạt cảnh và thí dụ sống động. Tuy nhiên, tất cả chúng đều nhắm đến trạng thái giác ngộ bí ẩn của Đức Phật ở nơi Phẩm Tựa, là trạng thái được gọi là Pháp hay Diệu Pháp. Đây cũng là nguồn cảm hứng vô  tận cho nhiều học giả và độc giả qua mọi thời đại.

Nhất thừa (Ekayāna): Một khái niệm của Kinh Pháp Hoa là Nhất thừa. Vào thời gian Kinh được biên soạn thì đã có mặt những danh xưng A la hán, Duyên giác và Phật. Phần đông đi theo con đường A la hán. Có lẽ, thảng hoặc đâu đó có một vài vị Duyên giác, trong khi thật hiếm thấy những chúng sinh như Cồ đàm Tất đạt đa thành Phật. Người ta đồng ý rằng, những tính cách của những vị này khác nhau, Đức Phật thì chắc chắn có nhiều khía cạnh ưu việt nhất, nhưng tất cả đều thật sự giác ngộ và sau khi nhập Niết bàn không còn tái sanh nữa. Tuy nhiên, chúng ta thấy trong Kinh Pháp Hoa, có một sự hạ thấp dần dần địa vị của A la hán, Duyên giác mà lại nâng cao địa vị Phật và sự chứng ngộ của ngài. Và Kinh Pháp Hoa biểu thị đỉnh cao của tiến trình này. Trong thực tế chỉ có Nhất thừa, chỉ một đạo lộ dẫn đến mục tiêu tối hậu là Phật, mà không phải là ba; nếu có chăng thì họ cũng chỉ khác nhau ở một vài phẩm hạnh.  Nhất thừa này là Phật thừa tối hậu. Giống như Phật ưu việt hẵn khi so với A la hán và Duyên giác, cũng vậy, tối hậu là Nhất thừa đưa đến địa vị Phật toàn mãn. Tất cả đều sẽ  thành Phật và học thuyết Tam thừa trong thực tế chỉ là phương tiện của Đức Phật (upāya-kauśalya):
“Này Xá Lợi Phất (Śāriputra), Ta là thế này. Khi biết chúng sinh có nhiều loại dục vọng và tham đắm trần gian; và dựa vào bản chất của chúng cũng như bằng phương tiện quyền xảo với nhiều thí dụ, ẩn dụ Ta thuyết giảng Chánh pháp cho chúng. Này Xá Lợi Phất, Ta làm điều này chỉ vì để chúng có được Nhất Phật thừa và Nhất thiết trí. Này Xá Lợi Phất, trong mười phương thế giới không có ngay cả hai thừa. Huống nữa là có ba!”[2]
Tánh Không (Śūnyatā): Tánh không hay không tự tánh là tư tưởng trung tâm của triết lý Trung quán. Nó quan trọng đến độ là hệ thống này thường được biết là Tánh không luận, nghĩa là, triết lý chủ trương tánh không như là đặc điểm của Thực tại. Theo Đức Phật, thế giới là không, và không là không có ngã hay ngã thuộc. Và ý niệm tánh không này được phát triển thêm bởi Long Thọ, người đã đồng hoá tánh không với duyên sinh (pratītyasamutpāda). Do vậy, việc hiểu đúng về tánh không sẽ giúp chúng ta rất nhiều trong việc hiểu Kinh Pháp Hoa. Mục đích của Pháp Hoa là khai thị Phật tri kiến (Buddhajñāna)[3] hay Nhất thừa và chấm dứt sự phân biệt tất cả các Pháp (sự vật, hiện tượng)[4] vì chúng là vô ngã (nairātmya), vô tự tánh (niḥsvabhāvatā), tánh không.
 “Các Phật lưỡng túc tôn
 Biết pháp thường không tánh
 Giống Phật theo duyên sanh:
 Cho nên nói Nhất thừa.”[5]
Một trong ba điều kiện thiết yếu để trở thành một vị giảng sư Pháp Hoa là ngồi toà Như lai (Tathāgata). Nhưng “Toà Như lai chính là Nhất thiết pháp không.”[6]
Tánh không trong Kinh Pháp Hoa được mô tả bởi những hình tượng “hư không” hay “giữa hư không”. Trong Chương XI “Hiện Bảo Tháp”, Phật Thích Ca (Śākyamuni), dùng sức thần thông tiếp hàng đại chúng đều ở hư không và do vậy mà có thể thấy cả hai vị Phật, Thích Ca  và Đa Bảo (Prabhūtaratna) trong bảo tháp. Và chỉ lúc đó Phật Thích Ca mới nói rằng:
“Ai có thể ở trong cõi Ta bà (Sahā) này rộng nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa? Nay chính là phải lúc!”[7]
Vâng, chỉ khi nào người ta nhận ra tánh không của tất cả các pháp lúc ấy họ mới hiểu rốt ráo ý nghĩa của Kinh Pháp Hoa. Và, cũng cần chú ý rằng, tánh không của Kinh Pháp Hoa cũng là tánh không của Đại thừa (Mahāyāna) không phải của Tiểu thừa (Hīnayāna).
 “Những vị mà trước kia là Thanh văn ở giữa hư không nói hạnh Thanh văn nay đều tu hành ‘nghĩa không’ của Đại thừa.”[8]
 Chân Đế(Tathatāhay Bhūtatathatā): Theo Long Thọ, có hai loại chân lý – Chân đế (Paramārtha satya) và Tục đế (Samvṛti satya hay hiện tượng). Theo ngài thì Chân đế siêu việt cả ý và lời. Hữu (bhāva) và phi hữu (abhāva) đều không thể áp dụng được. Ngài lập luận sự bất khả thi của những khái niệm này:
“Bhāvastāvat na nirvāṇam jarāmaraṇalakṣaṇam
 Prasajyetāsti bhāvo hi na jarāmaraṇam vinā.”[20]
(Niết bàn hay Chân đế không thể là một hữu (bhāva), vì trong trường hợp này nó không chịu sự sinh, già, và chết; không có hiện hữu thế gian nào thoát khỏi già và chết. Nếu nó không thể là hữu thì nói gì nó là phi hữu (abhāva), vì phi hữu chỉ là một khái niệm tương đối dựa vào khái niệm hữu).
Và, hiểu hai chân lý là một điều rất quan trọng; nếu không, người ta không thể hiểu lời dạy của Đức Phật:
“Ye nayorna vijñānanti vibhāgam satyayordvayoḥ
Te tattvam na vijñānanti gambhiram Buddhaśāsana.”[21]
(Ai không phân biệt được hai chân lý này thì không thể hiểu ý nghĩa sâu xa lời Phật dạy).
Tục đế (Samvṛti) là phương tiện (upāya) nhằm đạt đến đích (upeya) Thực tại, Long Thọ nói:
“Vyavahāramanāśritya paramārtho na deśyate
Paramārthamanāgamya nirvāṇam nādhigamyle.”[22]
(Không nhờ Tục đế thì Chân đế không thể được trình bày. Không biết Chân đế thì không thể chứng Niết bàn).
Trong Phẩm XVI của Kinh Pháp Hoa, nhị đế được diễn tả ngang qua: i) lời dạy của Đức Phật, và ii) thí dụ “Những cuồng tử của vị lương y”.
i)  Đức Phật nói rằng, thiệt ra từ khi thành Phật đến nay đã vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức na do tha kiếp (asaṃkhyeya-kalpas), thường còn, chẳng mất, siêu việt cả không gian và thời gian, hiện ra vô số thân ở mọi tình huống nhưng tất cả chỉ vì một mục đích duy nhất, ấy là, giải thoát chúng sinh khỏi khổ đau. Nhưng, nếu Đức Phật sống lâu trên trần gian thì những chúng sinh phước mỏng sẽ không trồng cội lành; trong khi những kẻ hạ liệt sẽ tham đắm vào ngũ dục và sa vào lưới hý luận, vọng tưởng và tà kiến. Vì thế, Đức Phật phương tiện hiện hình thành Phật Thích Ca lịch sử có sinh tử.
ii)  Ví như có một lương y giỏi, thiện xảo, khéo chế các dược thảo trị được nhiều căn bịnh. Khi ở xa về, vị lương y thấy những đứa con mình đang bị ngộ độc, đứa thì trầm trọng, đứa thì nhẹ. Những đứa nhẹ thì dùng thuốc của cha, những đứa nặng thì không. Rồi người cha đã dùng phương tiện để dụ chúng dùng thuốc. Tức thì người cha nói với con rằng, nay cha đã già yếu, sắp chết, thuốc hay cha đã để đó cho mấy con dùng, không sợ không khỏi bịnh. Sau khi căn dặn, vị lương y lại đi đến nước khác và nhắn tin về nhà rằng mình đã chết. Những đứa con tự nghĩ rằng, từ nay trở đi, đã trở thành côi cút, không còn ai để nương tựa nên rất sầu khổ. Nhưng chỉ  cuối cùng, khi tĩnh ra và cảm nhận được hương vị thơm ngon của thuốc, chúng liền uống và mọi chất độc cùng bịnh tật đều được chữa khỏi.
Trong Phẩm này, Kinh Pháp Hoa cho một ngụ ý về hai chân lý: i) Tục đế hay hiện tượng (được minh hoạ bằng Phật Thích Ca lịch sử và người cha chết), và ii) Chân đế hay Thực tại tuyệt đối (được minh hoạ với tuổi thọ vô lượng của Như lai và người cha vẫn còn sống). Vì trình độ của chúng sinh còn thấp, bằng phương tiện quyền xảo, đã nói với chúng sinh về Tục đế, tức là, Tam thừa. Thật ra, theo Kinh Pháp Hoa, chỉ có Nhất thừa, tức là, Thực tại tuyệt đối, thực và thường hằng.
Trung đạo (Madhyamāpratipad): Trong bài pháp đầu tiên, Chuyển động bánh xe pháp (Dhamma-cakkappavattana Sutta), cho năm vị ẩn sĩ tại Sa Nát (Sārnāth), Đức Phật nói rằng, Chân lý không nằm ở hai thái cực mà nằm ở Trung đạo:
“Một thời Thế Tôn ở tại Ba la nại (Vārāṇasī) ở vườn nai gọi là Chư thiên đoạ xứ (Isipatana) hay Sārnāth ngày nay. Ngài dạy năm vị tỷ kheo rằng, có hai thái cực không thích hợp với người du sĩ (người tìm cầu chân lý). Một là tìm cầu dục lạc khởi lên từ dục vọng … Hai là tìm cầu (tự hành hạ) khổ hạnh … Con đường Trung đạo của Như lai là tránh hai thái cực này. Nó đưa đến giác ngộ, chánh trí (về Tứ Diệu Đế) và dẫn đến an lạc, Niết bàn …”[23]
Trong Kinh Pháp Hoa, Trung đạo được minh hoạ bằng “hào quang phát ra từ bạch hào giữa đôi chân mày của Đức Phật”. Hào quang chỉ cho Tri Kiến Phật (Buddhajñāna), đôi chân mày chỉ cho hai thái cực, và bạch hào giữa hai chân mày chỉ cho Trung đạo.
Ngay từ Phẩm Tựa của Kinh Pháp Hoa, được nói rằng, sau khi giảng Kinh Đại thừa có tên Vô lượng nghĩa thuyết (Anantanirdeśa), Đức Phật nhập thiền quán thậm thâm  gọi là Vô lượng nghĩa xứ định (Anantanirdeśapratiṣṭhānasamādhi), thân tâm bất động, lúc ấy khăp thế giới và vũ trụ biểu lộ sự tán thán và vui mừng. Rồi ngài từ bạch hào giữa hai chân mày phóng một luồng hào quang chiếu khắp mười tám nghìn thế giới ở phương Đông. Bồ tát Di Lặc (Maitreya) hỏi Bồ tát Văn Thù (Mañjuśrī ) về hiện tượng lạ ấy và biết rằng, Đức Phật sắp giảng Đại Pháp (Kinh Pháp Hoa).
Lý do tại sao Đức Phật không biểu lộ Tuyệt đối bằng ngôn ngữ mà bằng thiền định, vì rằng, ngôn ngữ là biểu hiện lời nói thuộc ý tưởng lưỡng phân hay ý tưởng cấu thành. Nguyệt Xứng (Candrakīrti ) nói rằng:
“Paramārtho hi āryāṇām tūṣṇīmbhāvaḥ”[24]
(Đối với bậc thánh, Tuyệt đối thì chỉ có im lặng, nghĩa là, không thể diễn tả được).
Do vậy, ngoài việc được tôn kính từ chúng sinh, Kinh Pháp Hoa còn tự xưng là “Vua của tất cả các kinh (sūtras)”.  Điều này không có nghĩa là vua của các kinh theo nghĩa đen, mà có nghĩa là Thực tại tuyệt đối không thể được diễn tả - đã được Đức Phật chứng ngộ, và từ đó mọi diễn tả bằng lời hay kinh điển được hình thành.
Tác giả: Thượng tọa Thích Tâm Đức
 
2005, Giảng tại USA.
Quý vị có thể xem VCD giảng giải: Triết lý kinh Pháp Hoa (trọn bộ 15 VCD)
Trích lượt:
[4]   Dharma has several meanings, e.g., law, truth, methods of cultivation, things, events.
[5]               Leon Hurvitz, Opcit., p. 41.
[6]               Ibid., p. 180.
[7]               Ibid., p. 188.
[8]               Ibid., p. 198.
[9]               D. T. Suzuki, Outline of Mahayana Buddhism, NY., 1963, pp. 125-126.
[10]             Leon Hurvitz, Opcit., pp. 22-23.
[11]             Ibid., p. 110.
[12]             Munimatālaṃkāra, Tibetan Tripiṭaka, fol. 186b-187a.
[13]             Madhyamakakārikā, 25, 19.
[14]             Leon Hurvitz, Opcit., p. 106.
[15]             Ibid., p. 102.
[16]             Ibid., p. 103.
[17]             Ibid., p. 149
[18]             Madhyamakakārikā 13, 8.
[19]             Madhyamakakārikā 13, 8.
[20]             Ibid., 25, 4.
[21]             Ibid., 24, 9.
[22]             Ibid., 24, 10
[23]             Saṃyutta-nikāya V, 421ff.
[24]             Prasannapadā, p. 19

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét