Tìm kiếm

Thứ Hai, 5 tháng 8, 2013

ĐẠI CHÁNH TÂN TU ĐẠI TẠNG KINH PHÁP HOA HUYỀN TÁN NGHĨA

THỨ TỰ KINH VĂN SỐ 1724
Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan,
Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013(Chùa Khánh Anh )Pháp Quốc.Cuối tháng 3 năm 2013.
Hỏi về Bồ Tát có hai lọai. Nghĩa là về Đốn Tiệm Ngộ. Chia rõ hai lọai ấy thì có khác nhau chăng?
Đáp rằng: Chính việc chứng lý thì gọi là Đốn Ngộ. Được Thánh hồi tâm thì gọi là Tiệm Ngộ. Kẻ chưa được Thánh thì chưa ngộ lý. Nếu dùng niềm tin để Ngộ thì gọi là Tiệm Ngộ . Kẻ ấy đã có sẵn căn tánh Đại Thừa. Tuy chưa được nghe về Đại, mà chỉ nghe về Tiểu. Tuy chẳng có ý cầu nghe mà được rõ biết. Há gọi là Tiệm Ngộ sao?
Nếu niềm tín giải nầy chẳng gọi là Tiệm Ngộ thì chưa được quả Thánh. Kẻ liền hồi tâm lại cũng chưa Tiệm Ngộ. Nếu như vậy thì Định Sanh kia lúc ấy chẳng sánh với số lần sanh không nhiều, làm sao chẳng phải là Tiệm Ngộ? Điều nầy cũng chẳng phải như vậy. Nếu y cứ nơi quả của Tiểu thì là Định Sanh nầy; nhưng nếu quay trở lại Đại thì số lần sanh bất định.
Hỏi rằng: Đã định sanh rồi; tức là chẳng sanh nhiều lại chẳng tạo nghiệp. Như vậy thì thế nào là bất định và ai nói rằng chẳng tạo nghiệp? Luận thuyết có hai chi, chẳng nhiếp được hai vị. Dùng sự tăng lên thì chẳng có hữu. Nếu sẽ tạo nghiệp thì làm sao chẳng có những phần khác của hữu?
 Đáp rằng: Có hai cách giải. Thứ nhất giải thích rằng: Căn cứ vào vô lậu thì chẳng có phần phụ để nhiếp. Cho nên tạp tập nói rằng: Kẻ rõ con đường Đạo thì chẳng có lậu hoặc, mà như vậy thì làm thế nào để cảm được cái quả của Thập Vương? Tất cả các luận đều nói về Bát Nhã Ba La Mật Đa. Hoặc cảm nhận điều kia. Giả sử chẳng có một tướng, lại cảm được quả kia vậy. Vô Trước Bát Nhã luận rằng: Một bên; cho nên nếu chẳng cảm hữu lậu, thì một bên là thế nào? Lại có hai việc đúng. Đó là chẳng thể Chánh Cảm. Nghĩa là đối với Vị nầy tạo ra Cảm và sau đó có nghiệp. Kinh Duyên Khởi nói rằng:Trong Pháp ấy sinh ra khác. Nếu là kẻ buông lung thì lấy 3 lọai vô minh làm Duyên. Nếu chẳng phóng dật thì chẳng nói vô minh làm duyên. Lại nói rằng: Các bậc Thánh có học, chẳng tạo hoặc, sau đó có nghiệp. Chẳng phải nói: Chẳng phải Thánh, chẳng tạo nghiệp.
Lại nói rằng: Nếu không có khổ, thì khổ chẳng có. Vô Minh và các Hành chẳng sanh ra làm hai. Đã từ hình dung hiện ra hành động, thì sao lại chẳng tạo nghiệp?Gia Hạnh Đốn Trạng căn cứ vào Mãn Vị để nói. Dùng điều nầy;cho nên rõ biết hồi tâm, trải qua nhiều lần sanh; cho nên trở thành Đốn Ngộ. Lại nữa ở Tạp Tập Luận thứ 13 nói rằng: Đối với trong việc sanh nầy quyết định thường hay thông đạt chơn lý. Đây được gọi là Thông Đạt Thuận Quyết Trạch Phần. Tức là ở trong ngôi vị nầy thuộc về Bất Định Tánh vậy. Vì muốn hồi hướng đến tối thượng Bồ Đề và vì muốn cầu nơi các vị Độc Giác, Vô Sư tự chứng Bồ Đề, chuyển đổi rồi sanh. Đây gọi là Dư Sanh Thuận Quyết Trạch Phần.
                                          
Đã nói chuyển đổi đến Dư Sanh Minh Sanh Bất Định. Lại có Pháp Sư nói về bổn ý và chẳng nói về điều lành dõng mãnh. Bát Nhã nói:Cầu nhập vào chánh tánh lìa sanh, căn cứ vào việc chẳng dễ dàng thọ nhận sự luyến ái. Đã chẳng thọ việc luyến ái dễ dàng, thì sự sáng suốt ấy tức là đi đến Thánh quả lớn, chẳng phải nhỏ. Nói Định Sanh cùng với Giả Thục kia. Lúc ấy lại giải thích thêm rằng:Giả sử phàm phu chưa cầu ở nơi Tiểu; tức là cầu Đại Thừa. Cho nên Bất Định Tánh ấy lại có tên là Tiệm Ngộ. Do đó chẳng có thể một lần qua lại vậy. Trong ấy lại thối lui; nên nói rằng chẳng nghe nói một thừa; cho nên có thể thối lui.
Nếu mà nói chẳng nghe nói về Nhứt Thừa; tức có thể có sự thối lui. Nghe nói về Nhứt Thừa tức liền chẳng thối. Xá Lợi Phất cùng hội chúng lại nghe nói về Diệu Pháp Nhứt Thừa. Như thế sao có sự thối lui? Dùng điều nầy cho nên rõ biết hay có Tiểu tánh gọi là thối lui để chấp vào Tiểu. Được Thánh rồi mới quay trở lại lúc ban đầu thành bất thối. Cho nên gọi là Tiệm Ngộ. Giả sử có nhiều lọai cảnh giới, duy chỉ có hình thức của Tiểu tánh , lại có bất thối. Cuối cùng điều nầy lấy một phần chủng tử của Tiểu Thừa để trở thành Tiệm Ngộ. Cho nên pháp ấy gọi là Tiệm Ngộ. Đó cũng là Bất Định Tánh vậy.
Hỏi rằng: Đã vì đọan nghi; nên nói Diệu Pháp.Vì sao nghe rồi nghi liền sanh?
Đáp rằng: Nghi ấy có cũ và mới. Nghi cũ chẳng được làm Phật; cho nên chưa hồi tâm. Nói rằng ngày xưa chẳng thật, đều sẽ làm Phật. Đầu tiên nghe chỗ Phật nói, trong tâm hay có lo sợ lớn; chẳng phải là ma giả Phật làm não lọan tâm ta ư! Cho đến khi ta nghe, lưới nghi đã đọan rồi , vì đọan nghi; nên nói rằng Định sanh; tức là khi điều nầy sanh thì một chỗ Thuận Quyết Trạch Phần vậy.
Tạp tập thứ 13 nói rằng: Chưa đầy đủ tư lương thì chúng sanh làm cho đầy đủ. Khi chúng sanh chưa đầy đủ tư lương đã làm đầy đủ rồi; cho đến nói như vậy ba lọai chúng sanh đều do thành tựu Thuận Giải Thuyết Phần, Thuận Quyết Trạch Phần, mỗi mỗi có 3 phẩm. Ước(Giáo)hay dẫn đến Sanh Thuận Quyết Trạch Phần và Chơn lý hiện thấy. Như thế lần lượt chưa Định liền Định; tức là điều nầy lúc sanh thì đối với Đế Tăng Thượng Pháp thanh tịnh, tướng Thắng Giải là Thuận Giải Thóat Phần. Đối với Pháp Đế, Pháp Nhẫn tướng là Thuận Quyết Trạch Phần. Như điều nầy lần lượt Tín tăng lên; cho nên Huệ cũng tăng.
Ở trong đây 3 phẩm Thuận Quyết Trạch Phần thì trừ Thế Đệ Nhứt Pháp. Do tánh của Đệ Nhứt Pháp chỉ trong một sát na liền chẳng tương tục; tức là điều nầy khi sanh, Định Nhập Hiện Quán, chẳng phải là vị trí ở trước vậy. Câu văn phía trước hiển bày Tư Lương Gia Hạnh 2 vị và trong ấy mỗi mỗi có 3 phẩm. Như đây lần lượt chưa định sẽ định; tức là việc sanh nầy ở tại phiền não nhẫn.Trừ Thế Đệ Nhất Pháp. Thế Đệ Nhất Pháp tuy trong một sát na liền chẳng tương tục; chẳng thể phân chia. Cho nên nói: tức điều nầy khi sanh là Định Nhập Hiện Quán vậy. Căn cứ điều nầy , sát na sanh để nói. Tiền Giải Thóat Phần gọi sanh nầy là Ứơc Nhất Kỳ Sanh. Lại nữa, giải thích cho đầy đủ thì Ứơc(Giáo)nói là Nhất Kỳ Sanh. Dùng Thế Đệ Nhất Pháp tức là Sanh Thời nầy. Nghĩa là Trừ Thế Đệ Nhất Pháp làm rõ Ước Nhứt Kỳ; chỉ Tăng Thượng Nhẫn lại cùng với một sát na giống như ngăn cách Thế Nhất Thế Pháp. Chẳng phải điều nầy; tức là sát na sanh. Không nghe, chỉ thấy.
Lại nữa Phục Thông phân ra Yên Đảnh Nhẫn có 3. Vì ba ấy nghĩa là Tựu Thuận Quyết Trạch như thế . Sự phân chia ấy có sáu loại. Một là Tùy Thuận Thuận Quyết Trạch Phần. Hai là Thắng Tiến. Ba là Thông Đạt. Bốn là Dư Chuyển. Năm là Nhất Sanh và sáu là Nhất Tọa. Đầu tiên chỗ khởi duyên vào Đế Cảnh thực hiện phần thiện căn hạ phẩm. Gọi đây là Tùy Thuận Thuận Quyết Trạch Phần. Tức là căn lành nầy chuyển thành Trung Phẩm. Gọi là Thắng Tiến Thuận Quyết Trạch Phần, hướng về Hạ Phẩm phía trước để làm tăng thêm lên vậy. Tức là căn lành nầy tăng lên đến Thượng Phẩm. Đối với việc sanh nầy quyết định sâu xa có thể thông đạt Đế Lý. Gọi Thông Đạt Thuận Trạch Phần. Ba lọai trứơc nầy tại Nõan Đảnh Nhẫn Vị. Nếu Ước(Giáo)theo Tiểu Thừa thì có thể như thế phân phối Vị Định rồi trở nên Định; tức là Sanh Thời nầy.
Nếu Đại Thừa thì Trung Nhẫn Mãn Vị mới gọi Sanh Thời nầy. Nếu ở tại Hạ Nhẫn cho đến Trung Nhẫn Vị thì chưa đầy đủ. Giống như Đa Sanh vậy. Còn Nhị Thừa Vị tuy là Sanh nầy có thể có quay lại. Gọi là Dư Chuyển Thuận Quyết Trạch Phần; nếu Dư Chuyển ấy sanh ra Sanh nầy; tức là Bất Định. Để cầu Độc Giác Vô Thượng Bồ Đề thì liền ở nơi Đa Sanh Tu Thắng Hạnh. Nếu ở tại Đại Thừa thì Thuận Quyết Trạch Phần vậy. Liền không quay lui lại ở chỗ thấp hơn. Quyết một đời cùng với Đệ Thất Trụ, sớm gọi là Bất Thóai. Quyết Trạch Phần nầy ở tại hồi hướng tu. Dùng sự so sánh nầy; nếu Thuận Giải Thóat qua khỏi Đệ Thất Trụ, chưa Định đã Định thì tất cả đều chưa phải Dư Chuyển. Dư Chuyển và phía trước đã nói; cho nên từ Hạ Trung Thuận Giải Thóat Phần,Thuận Quyết Trạch Phần có nghĩa là có thể thối.
Căn cứ vào Nhị Thừa Vị để nói; nếu ở nơi Sanh Định nầy, có thể thông đạt, thì đây gọi là Nhẫn Sanh Thuận Quyết Trạch Phần. Như trứơc đã nói về Thông Đạt, theo Ước(Giáo)Nhị Thừa Vị công năng mà nói thì chẳng phải Bất Định Tánh tức là Bất Quyết Định . Dư Chuyển Quyết Trạch chỉ Bất Định Tánh. Một đời Thuận Quyết Trạch Phần căn cứ nơi Quyết Định Tánh. Mỗi mỗi thú hướng nơi mỗi Thừa; hoặc lại Thông ấy có Bất Định Tánh.
Căn cứ vào Bất Hồi Tâm tức là một đời nhập vào Phi Bất Định Tánh. Tất cả đều thấy đạo phía trước; tức là có thể Hồi Tâm. Trong đời sống ấy lại trải qua Bất Định Tánh. Ở trong Thượng Nhẫn, như câu văn phía trước về Trừ Thế Đệ Nhất Pháp,chỉ có một sát na vậy.                      
Ba lọai Luyện Ma Tâm đọan lìa Bốn Chướng; trong Vô Tánh Nhiếp Luận phần thứ 6 nói rằng: Nơi thuyết nầy rõ biết chỗ Sở Tri Tướng nhập vào Sở Tri Tướng.Vì sao thường thấy đa văn huân tập và nương tựa, chẳng phải chỗ nhiếp của A Lại Gia Thức? Kế đó hỏi rằng ai có thể rõ biết để có thể hỏi người có thể nhập?
Nghĩa là Đại Thừa đa văn huân tập tương tục rồi, được gặp những việc rất nhiều mà chư Phật đã xuất hiện ở đời trước. Được ở hướng Quyết Định Thắng Giải rồi, lành chứa nhiều căn lành , làm giàu cho Phước Trí Tư Lương. Bồ Tát với câu đáp nầy có thể nhập vào nơi người, căn cứ vào đó để khởi lên Hiện Hành Đa Văn, huân tập thêm cho hai tư lương. Nơi nào có thể vào và có thể Nhập Vị?
Nghĩa là liền ở nơi kia cái thấy giống với Pháp và với ý nghĩa. Nói rằng Đại Thừa Pháp Tướng cùng với chỗ sanh khởi Thắng Giải Hạnh Địa sánh với Pháp Nghĩa giống nầy; tức là nhập vào Đẳng Sở Sanh Thắng Giải Hạnh Địa, thấy được Đạo, Tu Đạo, cứu cánh đạo; ở trong ấy có thể đáp là Nhập Vị.
Đối với 4 Vị nầy theo sự nghe mà được thắng giải. Trị tất cả chướng. Cho nên lìa tất cả chướng vậy. Như thế lần lượt 4 con đường có thể lần lượt đi đến chỗ sai biệt.
Luận rằng: Do những gì mà có thể nhập và do căn lực lành nào mà có thể gìn giữ vậy?
Đó là 3 lọai tướng Luyện Ma Tâm vậy; tức là 4 xứ, giải pháp nghĩa cảnh, chỉ quán hằng thường ân trọng gia hạnh, không phóng dật.
Giải thích rằng:Do những gì mà có thể nhập? Câu hỏi nầy là vào nhơn. Nghĩa là do nhơn gì; tức là do thiện căn lực sở nhiệm trì vậy. Tuy có thiện căn lực, mà tâm hoặc thối lui vậy.
Nói về 3 lọai tướng luyện ma tâm. Ba lọai luyện ma ấy là:Vô lượng các thế giới, rất nhiều con người trong một đời của lòai hữu tình mỗi sát na sát na chứng được điều giác ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề. Đây là phần thứ nhất.
Do ý nầy vui có thể làm việc thí. Ta cũng được có ý vui như thế, thì đây là ý lạc. Ta do điều nầy dụng công lực ít về tu tập bố thí, sẽ được viên mãn. Đây là điều thứ hai.
Nếu có thành tựu các chướng trong việc thiện, đến khi lâm chung tức liền có thể thương tất cả chúng sanh tự thể viên mãn mà được sanh. Ta có Diệu Thiện Vô Chướng Ngại Thiện.
Vì sao lúc ấy chẳng thể được tất cả viên mãn? Đây là điều thứ ba.
Giải thích rằng:Vô lượng những thế giới cùng  với sự hiển thị đầu tiên luyện dẫn kia đến thí dụ nầy, làm cho tâm tăng cảm, chẳng có thối lui. Do việc ý vui nầy mà làm rõ phần thứ hai. Nếu những người thành tựu thì hiển thị phần thứ ba. Rộng như kia đã giải thích.
Luận rằng:Do vì lìa Thanh Văn Độc Giác có tác ý đọan trừ tác ý. Do nơi Đại Thừa , các nghi đã lìa thì có thể vĩnh viễn đọan trừ huệ nghi khác. Do lìa chỗ nghe, chỗ suy nghĩ, trong ngã, ngã sở, chấp đọan, chấp pháp. Do nơi hiện tiền, hiện trụ, an lập tất cả tướng, không có chỗ tác ý, không có chỗ phân biệt, đọan phân biệt.
Giải thích rằng: Đọan tác ý nghĩa là đọan trừ Nhị Thừa phân biệt tác ý. Ý nầy được giải thích rằng: Cho nên lìa Thanh Văn cùng với tác ý, rồi có thể đọan trừ. Chẳng khởi lên việc chấp thủ tâm nhị thừa.
Giải thích rằng: Thường hay xa lìa đọan trừ huệ nghi vậy. Nghĩa là ở nơi Đại Thừa sâu xa quảng đại, chẳng khởi sai biệt huệ điên đảo và nghi. Ý nầy được giải thích rằng: Do nơi Đại Thừa các nghi đã lìa vậy. Các nghi đã lìa cho nên nói rằng các nghi ấy tức là Phật nói Hỉển, Mật ba tạng đủ lọai chẳng giống nhau mà khởi lên nghi hoặc; gọi đây là các điều nghi.
Nói là lìa nghi là hay lấy sự đọan lìa vĩnh viễn việc đọan chấp pháp vậy. Nghĩa là đối với chỗ nghe, chỗ suy nghĩ về pháp có thể vĩnh viễn đọan trừ ngã và ngã sở chấp. Nghĩa là ngã hay nghe, ngã hay tư duy. Chỗ giác, nghe, chỗ suy nghĩ. Như ngã chấp trước tất cả đều là không. Đối với nghĩa nầy sẽ chứng hiện tiền quan vậy. Ý nầy được giải thích rằng: vì sao lại không có chấp nầy?
Vì ở nơi thắng nghĩa chứng được hiện quán và đọan trừ pháp chấp. Căn cứ vào chỗ không chấp nghe, suy nghĩ; nên gọi đây là đọan pháp chấp. Pháp chấp đã không, ngã chấp lại đọan. Chẳng khởi lên ngã hay nghe, suy nghĩ, hiểu biết.
Phần thứ tư lại lìa các pháp chấp, nói về bảy địa và 4 hạnh của Bồ Tát. Bảy địa gồm: Một là chủng tánh địa. Nghĩa là chủng tánh chưa phát tâm vị. Hai là Thắng Giải Hạnh Địa; tức là Thắng Giải Hạnh Trụ phát tâm đã xong tại nơi Địa Tiền, ba lần tăng lên Thượng Ý Lạc Địa; tức là Cực Hỷ Trụ ở nơi Sơ Địa.
Tứ Chánh Hạnh Địa nghĩa là Tăng Thượng nơi giới trụ, tăng thượng nơi tâm trụ. Giác Phần tương ưng với Tăng Thượng Huệ Trụ. Đế Phần tương ưng với Tăng Thượng Huệ Trụ. Duyên Khởi tương ưng với Tăng Thượng Huệ Trụ. Có Gia Hạnh, có công dụng, chẳng có tướng trụ. Tổng cộng có 6 trụ; gọi là Chánh Hạnh Địa. Như thế lần lượt lìa cấu mãi cho đến Viễn Hành.
Năm là Quyết Định Địa; tức là không có Gia Hạnh, không có công dụng trụ. Ở Đệ Bát Địa có ba lọai quyết định. Một là tánh quyết định; hai là phát tâm quyết định và ba là bất hư hạnh quyết  định. Ở nơi đệ bát địa nầy rơi vào ở đệ tam quyết định; cho nên nói là quyết định hạnh địa. Tức là Vô Ngại Giải Trụ.
Ở đệ cửu địa thì có bảy thí dụ về Cứu Cánh Địa. Tức là tối thượng thành mãn Bồ Tát trụ lại cùng với Như Lai trụ. Ở Địa thứ 10 sánh với Phật Địa. Đệ Thập Địa gọi là Cứu Cánh Phật Địa. Kết qủa là Cứu Cánh vậy.
Tứ Hạnh gồm có: Một là Bồ Đề Phần Pháp Hạnh; hai là Thần Thông Hạnh; ba là Ba La Mật Đa Hạnh; bốn là Thành Tựu Hữu Tình Hạnh. Nguyên Nhân khởi lên có hai. Một là Thông; hai là Biệt. Thông ấy là quan dư giáo; biệt ấy thuộc một kinh vậy. Thông ấy có nhiều nghĩa. Hữu vi đầu tiên do nhơn khởi; nên nói các pháp; tức là vô luợng nghĩa kinh nói rằng: Pháp vô lượng.
Dùng những tánh dục của vô lượng chúng sanh ấy ; nên chỗ nói pháp cũng vô lượng. Điều nầy sanh ra là do nguyên nhơn nầy khởi. Lại nữa một nguyên nhơn khác theo kinh Pháp Hoa nói rằng: Vì những chúng sanh nầy nên mới khởi tâm đại bi. Đây ý nói Đức Phật do từ bi nầy mà khởi lên để nói kinh có hai nguyên nhơn; tức là tổng nói về hai việc trước. Phần thứ 20 của Duy Thức nói rằng: Triển chuyển tăng thượng lực và hai thức thành quyết định. Lại có hai nguyên nhơn: Trong bài tụng của Pháp Hoa nói rằng: Nhiều lọai nhân duyên lấy vô lượng thí dụ để làm sáng tỏ cho Phật Pháp, nhằm khai ngộ cho chúng sanh. Đây chính là vì Pháp vì người làm hai lọai nhân duyên. Lại có 3 nguyên nhân. Theo kinh Bát Nhã nói rằng: Trụ như thế nào, tu như thế nào và hàng phục tâm nầy như thế nào? Duy chỉ Ước(Giáo)phát khởi nơi Đại Thừa để hỏi về sự thật. Ba Thừa đều đầy đủ; giản lược hai thừa thì nói ý thú Đại Thừa. Tức là ba nguyên nhân nầy. Một là làm cho phát tâm; hai là làm cho tu hành và ba là làm cho đọan chướng. Như thế lần lượt làm cho sáng tỏ con đường nầy, thành tựu con đường đạo vậy. Chẳng mất Đạo. Điều nầy theo việc tu hành của Ước(Giáo) lần lượt sẽ nói đến.
Lại có bốn nguyên nhơn , như Pháp Hoa phần thứ ba nói rằng: nghĩa là những người chưa được độ thì làm cho được độ; những người chưa hiểu thì làm cho hiểu; những người chưa an thì làm cho được an; những người chưa chứng được Niết Bàn thì làm cho chứng Niết Bàn. Nghĩa là làm cho những chúng sanh chưa lìa khổ thì làm cho được lìa khổ; chưa được vui thì làm cho được vui; chưa phát tâm dứt ác tu thiện thì làm cho phát tâm bỏ ác tu thiện. Những người chưa chứng qủa thì làm cho được chứng quả. Những điều nầy nương vào thệ nguyện rộng lớn hóa độ chúng sanh theo thứ lớp.
Lại có năm nguyên nhơn. Theo Tư Ích Kinh phần hai nói rằng: Nếu người nào hay ở nơi Như Lai căn cứ vào văn tự chương cú để nói rõ ràng tùy thuận, cho đến nói rằng có thể rõ biết Như 
Lai dùng những gì để nói pháp, dùng tùy nghi để nói. Dùng phương tiện nào để nói, dùng pháp môn nào để nói, dùng tâm đại bi nào để nói. Dầu Phạm Thiên hay Bồ Tát có thể rõ biết Như Lai, dùng Ngũ Lực để nói: đây là Bồ Tát có thể làm Phật sự. Dùng những gì để nói pháp tức là nói ba đời thế và xuất thế gian sanh tử Niết Bàn, uẩn, xứ, giới v.v.tức là luận bàn về pháp thể, dùng những gì tùy nghi để nói; tức là tùy theo căn cơ nghi hoặc. Hoặc tranh luận hoặc chẳng tranh luận; nói về ngã, vô ngã v.v.hoặc nói rõ ràng hoặc nói ẩn dụ.
Dùng những phương tiện nào để làm cho chúng sanh lìa khổ, hoặc làm cho được an lạc, chỉ bày lợi ích rõ ràng ở nơi không lời dùng để thuyết pháp cũng là phương tiện. Dùng pháp môn gì nghĩa là ở nơi một pháp các môn để nói vậy. Dùng tâm đại bi nào để khởi lên bốn nguyên nhơn kia? Đầu tiên ở chỗ 2 và 4 để nói. Phần thứ ba thông qua có thể nói. Phần thứ năm có thể khởi lên nguyên nhơn; tức là làm ba ví dụ. Đầu tiên hai và bốn làm chỗ nói. Phần thứ ba do có phương tiện cho nên có thể khởi nói. Phần thứ năm do có đại từ bi; cho nên vì vật mà khởi ở nơi phương tiện nói cho kia nghe pháp kia.
Đại Bi ấy có 32, như nói các pháp vô ngã, mà những chúng sanh chẳng tin, chẳng rõ. Như Lai đối với điều nầy khởi tâm đại bi, liền tùy theo cảnh giới của sanh kia mà chẳng rõ. Mê mệt nơi sanh tử, chẳng thể ra khỏi; cho nên khởi tâm đại bi. Tùy theo nơi kia chẳng rõ biết tâm đại bi mà liền nói. Từ đó làm cho chúng sanh có thể giảm dần. Lòng từ của Như Lai chính là chỗ cảm ứng.
 Lược nói có hai duyên. Mở bày có năm. Nói rộng ra thì vô lượng; giống như Du Gìa Nhiếp Thích Phần nói. Sau đó giải bày.
Lại nữa có sáu nguyên nhơn mà Bồ Tát Vô Trước nơi Bát Nhã luận đã giải thích. Tu Bồ Đề hỏi ý ấy có 6. Phật vì đó mà đáp có 6 ý. Luận rằng: Vì sao mà Thượng Tọa Tu Bồ Đề hỏi vậy? Đáp rằng: Có 6 nhơn duyên, vì đọan nghi, vì khởi lòng tin, vì thâm nhập pháp, vì chẳng thối chuyển, vì sanh hoan hỷ, vì chánh pháp ở lại dài lâu. Nếu kẻ có nghi thì được đọan nghi. Nếu đã đọan nghi rồi, có lạc phước huệ, mà tâm chưa thành tựu thì các Bồ Tát và Thanh Văn phước đức ở nơi Bát Nhã kinh mà khởi tín tâm rõ biết. Kẻ đã được tâm thành tựu rồi thì thâm nhập vào nghĩa ấy. Phước đức nầy chẳng nhẹ, do người ấy mong thọ trì tu hành, có nhiều công đức, chẳng trở lại thối chuyển. Người mà đã được thuận nhiếp và tâm thanh tịnh thì đối với pháp tự nhập vào, đồng sanh hoan hỷ. Có thể làm cho vị lai Đại Thừa giáo ở lâu; cho nên Pháp Hoa mới có sự suy lường trên dưới vậy.
Lại có tám nguyên nhơn. Từ Pháp Hoa đệ nhất Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp văn thành tựu có 8 nghĩa lớn. Nhơn đây mà chia ý nghĩa ra. Nếu chia theo Du Già 81 Nhiếp Thích Phần thì, cách giải thích kinh theo quy tắc là trước giải thể lọai của kinh, sau đó giải thích văn nghĩa, pháp v.v.Bắt đầu giải thích chỗ khó, kế đến giải thích nghĩa lại có nhiều. Phần thứ tư là nương vào nơi chốn và tổng quát để lập nên chỗ phát khởi của nhơn duyên. Luận kia nói rằng: Như trên đã nói là nói sự việc, nơi thời gian và nơi chúng sanh.
Chư Phật Thế Tôn lưu bố Thánh Giáo cho nên nói tên kia là vì nương vào nơi chốn và sự việc. Nương vào nơi chốn có 3. Một căn bản sự việc nương vào nơi chốn lại có 6. Một là nơi lành; hai là nơi ác, ba là thóai tùy, bốn là thăng tiến, năm là sanh tử, sáu là Niết Bàn sanh tử. Ở phía trước phần 4 Niết Bàn, tức Dư và Vô Dư v.v. Ở trong ấy 3 đối lại với 2. Việc được phương tiện nương vào nơi chốn lại có 12; tức là 12 hành. Một là dục hành, hai là nan dục hành, ba là thiện hành, bốn là bất thiện hạnh, năm là khổ hạnh, sáu là phi khổ hạnh, bảy là thuận thóai phần hạnh, tám là thuận tiến phần hạnh, chín là tạp nhiễm ô hạnh, mười là thanh tịnh hạnh, mười một là tự lợi nghĩa hạnh, mười hai là lợi tha nghĩa hạnh. Trong ấy 6 đối với 3. Nương vào sự bi mẫn của việc kia lại có 5. Một là làm cho lìa dục, liền vì đây mà nói sanh tử sai quấy; hai là thị hiện tức là vì hiển thị bốn lọai đạo lý. Nghĩa là pháp nhĩ nhân duyên chứng thành tác dụng 4 lọai đạo lý kia; ba là chỉ bày tức là kẻ chưa phát tâm chỉ vẻ làm cho phát tâm tu các chánh hạnh; bốn là tán dương người thấy kẻ thối lui, khuyến tấn khuyên bảo làm cho họ tiến; năm là kẻ vui mừng thấy có thể tiến tu mà lại thóai lui, làm cho sanh vào chỗ hoan hỷ.
Thời gian nương vào nơi chốn tức là ba đời mà chúng sanh y cứ nương vào nơi ấy. Nghĩa là 27 lọai chúng sanh ấy nương vào Nhiếp Tư Ích Kinh Như Lai Ngữ Lực. Sự nương vào nơi chốn; trong ấy lấy căn bản sự nương vào nơi chốn và thời gian nương vào nơi chốn. Lấy điều kia để thuyết pháp những gì nhiếp được phương tiện nương vào nơi chốn. Nghĩa là tùy nghi như thế nào thuyết pháp và dùng phương tiện gì, pháp môn gì để nhiếp. Hoặc dùng đại bi và phương tiện nào để nhiếp. Bi mẫn nương vào nơi chốn tức là lìa dục v.v.
 Ước (Giáo) phương tiện có thể khởi lên 5; tức là vì lòng thương đối với chúng sanh nương vào nơi chốn lại vì đại bi mà nhiếp. Du Già Ước (Giáo) có thể thương chỗ thương mà biệt khai. Tư Ích căn cứ vào việc khởi bi làm nhơn, lại dùng đại bi nhiếp; cho nên kinh kia nói rằng: như nói các pháp vô ngã mà chúng sanh sanh ra chẳng tin chẳng rõ. Như Lai đối với điều nầy mà khởi lên lòng thương. Sự hiển bày nầy ở nơi chư Phật là do lòng bi vậy. Vì chúng hữu tình nương vào chỗ lành, dữ, cho đến tự tha lợi hành tùy theo nơi đây mà có thể làm cho rõ biết. Cùng với những công đức dấu niềm vui tu đọan để cho chứng được và làm cho lìa dục , chỉ bày tán thán hoan hỷ. Ở trong kinh văn tùy theo nghĩa mà chia ra. Sợ phiền phức chẳng thuật lại.
Cách khác theo Đại Trí Độ Luận, trong ấy nói: Ở đây vì khởi ý, ý ấy là nguyên nhơn để thỉnh. Những việc nầy đều là như thế. Nay lại từ nơi kinh mà khởi ý, trong ấy tổng cộng có 10 môn. Nói cách khác có 52. Một đàng là vì hiển nơi một mà nói kinh nầy có bốn lọai. Một đàng khác là một ấy hiển nhất thừa; cho nên nói kinh nầy. Vì vậy phần thứ hai nói trong kinh nầy duy chỉ nói một thừa. Hai là vì hiển bày việc bình đẳng của Thế Tôn với Đại Huệ. Đa Bảo tán thán bảo rằng hay bình đẳng với Đại Huệ. Ba là vì hiển chơn như thể, duy nhứt tướng cho nên nói kinh nầy. Cho nên phần thứ ba nói rằng Như Lai trí là một tướng một vị vậy. Trước ba kia làm cho ngộ. Bốn là vì tất cả sắc thân Tam Muội; nên Hỷ Kiến Bồ Tát cũng được hiện nhất thiết sắc thân tam muội.Trong số nhiều ấy lược ra nơi đây chỉ có bốn. Điều thứ nhất lược rõ về nguyên nhân làm cho tu có hai. Vì hiển hai lại có bảy. Một là hiển giáo lý, hơn hai nên nói kinh nầy.
Cho nên phía dưới câu văn nói rằng chư Phật trí huệ thậm thâm vô lượng, với cửa trí huệ nầy khó hiểu, khó vào. Luận giải thích rằng: Việc chứng sâu xa ấy cùng với việc chỉ bày sâu xa kia lại như hoa sen hai nghĩa. Lại nhiếp ở cửa nầy và nay thì muốn nghe. Hai là vì hiển nhơn quả cả hai cửa. Trong luận nầy nói rằng từ đây trở đi làm rõ tướng nhơn qủa, làm cho vui tu vậy. Phần thứ ba là vì hiển quyền thật hai thừa mà câu văn ở dưới dùng một Phật thừa, vì chúng sanh để nói pháp. Chẳng có thừa nào khác, hoặc hai hoặc ba. Lại nói rằng duy chỉ có một sự thật. Ngòai hai tức chẳng đúng và làm cho chấp thủ vậy. Phần thứ tư hiển chơn hóa thành hai thân. Thọ Lượng Phẩm nói rằng: Họ đều vì ta mà ra khỏi cung giòng họ Thích. Từ khi ta thành Phật đến nay vô lượng A Tăng Kỳ kiếp, làm cho rõ biết việc chơn hóa nầy. Phần thứ năm hiển tổn ích hai hạnh. Cho nên trong phẩm Bất Khinh nói rằng: Với kẻ cúng dường, cúng dường nầy như thế hướng đến để nói. Những người phỉ báng như trước đã nói, làm cho phòng ngừa để tu vậy. 
Phần thứ sáu là hiển quyền, bỏ dơ sanh tịnh, như Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự Phẩm v.v..nay lìa ác gần thiện vậy. Phần thứ bảy là dấu phía dưới hiện ở trên. Phần thứ tám như đã nói là sẽ sanh Đao Lợi Thiên v.v làm cho lìa sự lo sợ sẽ gần gủi.
Ba là hiển ba có bảy. Một hiển ba về chỗ ở. Câu văn phía dưới nói rằng: Lại thấy cõi kia, thấy ở chư Phật và nghe chư Phật nói kinh pháp; lại thấy ở kia các vị Tỳ Kheo v.v.Lại nữa ở phần thứ hai nói rằng: Nếu có thể được tin kia để nói thì liền thấy nơi ta và các vị Tỳ Kheo Tăng cùng các vị Bồ Tát. Luận rằng: Phật và Đệ Tử thị hiện khác nhau hiện ra Tam Bảo, làm cho vui khởi niềm tin. Phần thứ ba hiển Ba Thừa khác nhau. Nghĩa là Tỳ Kheo cùng với tứ chúng và thấy các vị Bồ Tát đầy đủ nhân duyên để cầu Phật đạo.
Luận rằng: Lại cũng có Thừa khác nhau cho nên có sự cao thấp. Phần thứ ba Thế Tôn hiển 3 cổ xe để giáo hóa. Kẻ nhập định thì hiện ra xe của tâm nhớ nghĩ; việc phóng quang thì xe ấy hiện ra cảnh thần thông; người thuyết pháp thì hiện ra xe giáo huấn. Khiến cho kẻ trí khởi tâm tôn trọng. Phần thứ tư hiện ra việc thấy rõ 3 tánh. Câu văn ở dưới nói rằng: Chư Phật Lưỡng Túc Tôn rõ biết pháp thường vô tánh. Giống Phật từ nhân duyên khởi; cho nên nói một Thừa là Pháp Vị vậy. Khiến cho rõ ba tánh và đạt được chỗ rõ biết. Phần thứ năm hiển bày ba thắng hạnh. Phần phía dưới nói rằng: Vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai và ngồi tòa Như Lai. Vì hiển bày thắng hạnh để làm chỗ tu học. Phần thứ sáu hiển bày 3 lọai bình đẳng. Một là Thọ nhận sự thọ ký của Phật cho các vị Thanh Văn được làm Phật. Hai là Phật Đa Bảo đã vào Niết Bàn; nhưng từ Niết Bàn mà dậy. Ba là hiện ra thân Phật để nhiếp hóa tất cả Phật. Cho nên luận nói rằng: Vì trừ ba lọai nhiễm, không phiền não, tam muội, thấy chúng nhiễm kiêu mạn nên nói ba bình đẳng. Ba lọai nhiễm mạn là: Một là tin các Thừa khác nhau. Hai là tin Niết Bàn ở thế gian khác nhau. Ba là tin ở thân nầy, thân kia khác nhau; khiến cho chứng được chơn lý, nhiếp tự, hóa tha. 
Phần thứ bảy là Phật hiển bày ba sự giác ngộ. Kinh phía dưới tất cả đều có ý là Như Lai ra khỏi cung dòng họ Thích là hiện hóa thân. Ta thật từ khi thành Phật đến nay dài lâu là hiển báo thân. Như Lai rõ biết như thật về ba cõi; nên hiển thị pháp thân để nói và phần thứ tám là thị hiện thành sự giác ngộ lớn, bậc vô thượng, thị hiện ba lọai Phật giác ngộ v.v...làm cho rõ biết chơn hóa mà cầu chứng đạo.
Bốn là hiển bày 4 ấy có bảy. Một là hiển thị Như Lai có 4 cách nói về nguyên nhơn lại nói bốn lọai thành tựu. Một là đã thành tựu rồi; tức là các lọai phương tiện; hai là giáo hóa thành tựu; tức là các lọai tri kiến. Ba là công đức cứu cánh thành tựu; tức là các lọai niệm quán. Bốn là nói năng thành tựu; tức là đủ lọai ngôn từ, làm cho rõ biết hai sự ưu việt, khởi lên sự khát ngưỡng. Hai là hiển thị khai thị ngộ nhập bốn lọai công việc, làm cho rõ quả, hạnh, nhơn. Ba là hiển 4 hạnh Bồ Đề.
Phần phía dưới nói về pháp du hí thần thông của Bồ Tát, tịnh Phật quốc độ và thành tựu chúng sanh, khiến tu hành tinh tấn. Thứ tư hiển 4 an lạc hạnh; tức là phẩm An Lạc Hạnh. Một là Chánh Thân Hạnh; hai là Chánh Ngữ Hạnh; ba là ý lìa các việc ác, tự lợi hạnh; bốn là cùng tu các hạnh lành làm lợi lạc cho người khác, khiến việc hoằng pháp lợi sanh, học điều có, bỏ điều chẳng phải. Năm lọai hiển Như Lai 4 lọai thắng lực. Phẩm Dũng Xuất nói rằng: Như Lai nay muốn hiển phát tuyên nói chỉ bày thần lực của chư Phật, trí tuệ của chư Phật, lực tự tại của thần thông, lực sư tử phấn tấn của chư Phật, lực đại uy thế của chư Phật; khiến cho rõ biết chỗ thâm diệu kia. Sáu là hiển thị Như Lai có 4 lọai tất cả. Phẩm Thần Lực nói rằng: Như Lai làm chủ tất cả các pháp; Như Lai có năng lực tự tại tất cả; Như Lai tàng chứa tất cả bí mật; Như Lai có tất cả mọi việc sâu dày. Bốn việc tất cả ấy làm cho có thể rõ biết , khuyên dạy chỗ tốt đẹp.
 Bảy lọai hiển thị thành tựu 4 pháp chưa thay thế được nghe kinh nầy. Phẩm Phổ Hiền nói rằng: Một là chư Phật hộ niệm; hai là trồng các cội công đức; ba là vào Chánh Định Tụ; bốn là: phát tâm cứu vớt tất cả chúng sanh làm cho rõ biết thắng pháp khó nghe, liền tu thắng hạnh, sau đó mới được nghe; năm là vì làm sáng tỏ năm ấy có 7; một là hiển bày trí tuệ thâm sâu. Luận giải thích rằng: Trí huệ lại có 5 lọai thâm sâu. Một là nghĩa; hai là thể; ba là nội chứng; bốn là nương vào; năm là vô thượng thậm thâm, làm cho vui chứng. Hai là hiển bày giáo môn có 5 lọai khó. Trong Luận Diệp Kinh nói rằng: Trí huệ môn nầy khó thấy, khó biết, khó rõ, khó hiểu, khó vào, làm cho chúng sanh tìm cầu, nguyện muốn được nghe. Ba là làm hiển 5 lọai trược. Phía dưới nói về nghĩa của kiếp trược, khiến cho sanh xa lìa, hiển ra lòng đại bi của chư Phật. Bốn là hiển 5 lọai yếu kém chẳng vì nói một. Phẩm Phương Tiện nói rằng: Độn căn vui nơi pháp nhỏ, tham đắm nơi sanh tử. Đối với tất cả vô lượng chư Phật chưa thật hành thâm sâu diệu đạo; những sự khổ ấy não lọan, vì đây mà nói Niết Bàn; khiến cho xả bỏ chỗ yếu kém của người.
Năm là hiển thị năm đức, vì nói một Thừa. Phía dưới nói có Phật Tử tâm tịnh nhu nhuyến, lại lợi căn; nên vô lượng chư Phật ở nơi đó mà thực hành diệu đạo, khiến cho học được điều thắng diệu. Sáu là làm rõ Ngũ Thừa, khiến cho rõ biết căn tánh. Một là mưa nhuần thấm, làm cho các lọai sanh trưởng. Luận giải thích rằng: kẻ vì một hướng cầu Đại Thừa, tăng thượng mạn nói rằng không có Thừa sai biệt, khiến cho rõ biết các lọai Thừa khác nhau. Nói ví dụ mưa, khiến cho biết rằng gốc rễ căn cơ tùy nghi giáo hóa vậy.
Phần thứ bảy hiển 5 duyên mới nói một Thật. Trong Hóa Thành Phẩm nói rằng:Tự rõ Niết Bàn thời đến. Chúng sanh lại thanh tịnh tin hiểu kiên cố. Rõ biết pháp không, thâm nhập Thiền Định, khiến cho rõ biết pháp khó nghe được an lạc thành thục. Tám là hiển 6 có 6. Một là thị hiện 6 lọai chấn động, khiến cho chúng sanh kinh ngạc ngộ ra. Hai là hiện sáu cõi, khiến cho sợ hãi xa lìa. Phía dưới câu văn nói rằng:Tận thấy cõi kia 6 lòai chúng sanh. Ba là hiện hành lục độ, khuyến khích làm cho tu học. Như phía dưới bài tụng nói. Bốn là làm rõ với sáu việc thọ ký. Luận nói rằng: Một là chưa nghe khiến cho nghe; hai là nói; ba là nương vào nghĩa gì; bốn là làm cho trụ; năm là nương vào pháp; sáu là lần lượt. Cách chia câu văn có thể rõ; hiển thị điều ngay theo căn cơ, khiến cho bỏ chỗ chấp; năm là hiển thị trang nghiêm sáu căn, khuyến khích làm cho trì tụng, như phẩm Pháp Sư Công Đức nói rộng. Nên biết đó mà trì kinh; sáu là làm rõ 6 lọai thọ ký, khiến cho rõ biết quả về sau, rõ biết chỗ khởi lên quyết định có tâm tu học. Nghĩa là biệt ký, đồng ký, hậu ký, vô óan ác ký, thông hạnh ký, cụ nhơn ký như trong luận có giải thích rộng.
Phần bảy hiển 7 lại có 4. Một là hiển Thế Tôn đầy đủ 7 thành tựu. Có đủ lọai lời nói làm cho sanh ra có nhu cầu để hỏi. Một là đủ lọai thành tựu. Hai là ngôn ngữ thành tựu. Ba là tướng. Bốn là cảnh. Năm là đủ lọai. Sáu là giác thể. Bảy là tùy thuận chúng sanh tu hành, nói thành tựu. Theo kinh để có thể rõ, khiến cho người trí đầy đủ biện đức. Hai là hiển 7 lọai chúng sanh khởi lên 7 lọai mạn, khiến cho rõ biết sự sai quấy. Ba là để trị cách nói nầy với 7 thí dụ, khiến cho đọan trừ những chướng nhiễm ô. Như thế luận giải đầy đủ. Bốn là hiển trì kinh đầy đủ với 7 đức; khiến thực hành pháp vậy. Theo phẩm Pháp Sư, liền cầu áo Như Lai để mặc. Lại nữa vì người kia mà chư Phật trong hiện tại nói chỗ hộ niệm. Có niềm tin lớn và chí nguyện lực cũng như những lực của căn lành. Cùng với Như Lai ở chung một chỗ; Đức Phật xoa đầu; khiến cho rõ biết việc trì kinh thành người hòan hảo, thực hành kinh thâm diệu. Tám là hiển 8 ấy có 4. Một là nguyện chỉ bày đầy đủ 8 việc sâu xa. Giải thích rằng: Một là độc kinh; hai là tu hành; ba là hạnh quả; bốn là tăng trưởng tâm công đức; năm là thích việc vi diệu; sáu là vô thượng thậm thâm; bảy là vào chỗ thậm thâm; tám là cùng với Thanh Văn Bích Chi Phật tạo ra chỗ ở sâu xa. Câu văn phân chia để rõ; khiến cho rõ biết chỗ sai biệt tốt xấu để chỉ bày. Hai là vì làm cho lìa khỏi 8 việc tà vạy.
Câu văn phía dưới nói về người kẻ bạc đức thiếu phứơc. Lại nói chẳng cầu lực lớn nơi Phật. Lại nói về cái ngã lớn nhiễm ô tà kiến v.v...khiến cho rõ biết tà chánh. Ba là khiến cho tu bát chánh. Câu văn phía dưới nói Thế Tôn rõ biết tâm ta, đánh bạt tà thuyết để nói Niết Bàn; khiến cho rõ biết chỗ ưa dùng để được ra khỏi cuộc thế được vui. Bốn là làm cho lìa khỏi tám nạn.

Phẩm Đề Bà nói rằng: chẳng sanh vào địa ngục; làm cho rõ biết sự thắng lợi, được kết qủa vui đẹp ở đời. Chín là hiển 9 bộ kinh để làm nơi diễn nói; khiến cho rời bỏ quyền uy. Cho nên câu văn dưới nói rằng: Ta đối với 9 bộ pháp nầy tùy thuận chúng sanh để nói. Lấy việc vào Đại Thừa làm gốc. Cho nên nói kinh nầy. Khiến cho rõ biết phương tiện, chỉ bày một nữa việc. Mười là làm hiển 10 có 5. Một là chỉ bày Văn Thù được Túc Mệnh Trí, thành tựu 10 việc như hiện tại tiền. Như trong luận giải thích đầy đủ. Biện giải câu văn để hiển bày. Hiển ấy đối với Ngài là chỗ ưu việt vậy. Hai là hiển thị giáo pháp có 10 lọai thắng diệu. Câu văn phía dưới diễn nói chánh pháp về sơ thiện, trung thiện v.v...khiến sanh chỗ vui thích. Ba là hiển Đại Thừa lại có 10 vô thượng, khiến cho rõ biết chỗ ưu việt của kinh. Như văn từ đầy đủ và phân chia đầy đủ. Bốn là hiển 10 nghĩa để nói Nhứt Thừa. Rõ biết luận Đại Thừa và luận Trang Nghiêm; khiến cho rõ biết Đại Thừa ấy có 4 bí mật. Năm là hiển thị kinh nầy có 10 lọai thù thắng.
Một là nêu lên sự việc làm sáng tỏ chỗ khó tin, lược đưa ra 6 hạnh để lảm sáng tỏ việc khó khăn nầy. Như phẩm thấy Bảo Tháp nói. Hai là dụ cho lọai khó suy lường. Lược đưa ra 10 thí dụ để làm rõ kinh nầy như phẩm Dược Vương Bồ Tát nói. Giống như tất cả nước sông đều chảy về biển vì tất cả vậy. Ba là chứng nghiệm được hơn Nhị Thừa. Rõ chứng liền đó bảo tháp hiện ra để muốn chỉ bày việc Phật đều đến. Điều nầy dùng để chứng minh cho việc thắng diệu. Từ dưới Long Cung tất cả đều hướng về. Phổ Hiền diệu âm nương về nơi Bảo Tháp. Lại nghe tiếng các Bồ Tát đầy đủ uy đức, vây quanh tứ chúng, Long Thiên cùng các Tôn Giả tập hợp, để nghe điều thắng diệu. Bốn là có thể trừ 8 nạn. Theo Thành Thật Luận nói về 4 bánh xe có thể bẻ gãy 8 nạn. Ở trong kinh nầy, người nghe ít sinh tin; tức là có thể tổng trừ được. Phẩm Đề Bà Đạt Đa nói: Năm là sanh Thiên liền gặp Phật, như phẩm Phổ Hiền nói. Sáu là được ở Tịnh Độ, liền nghe một phẩm, sau đó vãng sanh về Tịnh Độ. Như phẩm Dược Vương nói. Bảy là chẳng thối Bồ Đề. Một lần nghe sanh tín tâm, chẳng thối bồ đề. Như phẩm Phân Biệt Công Đức nói. Tám là vì phước điền ở đời. Trì kinh 4 câu thì được sự cúng dường thắng diệu của trời ngừơi. Một bước tán thán lại vô biên; một việc tán thán kẻ trì kinh phước lại hơn kia. Như phẩm Pháp Sư nói. Chín là phước báu khó nghĩ bàn. Trì độc kinh nầy công đức vô hạn. Như phẩm Dược Vương và phẩm Phân Biệt Công Đức nói. Mừơi là mau được thành Phật. Như phẩm Đề Bà Đạt Đa và phẩm Bất Khinh nói. Đầy đủ như trong Hành Nghi nói. Lược đưa ra chỗ đại cương, làm rõ mười môn nầy, lo toan mà dừng.
Phía trứơc có 52 duyên. Kinh nầy là nhơn khởi. Tụng rằng: Đầu 4,3 mỗi mỗi 7,5,7,6 có 6,7,8,4,9,1,10 có 5 nên biết. Kiết Tạng Pháp Sư lược giải thích 10 nghĩa. Một là nói về Bồ Tát Đạo. Hai là thọ nhận việc thỉnh cầu của Phạm Vương. Ba là hiển thị ba đời chư Phật quyền thật ba trí. Bốn là nói về 3 tịnh. Năm là nói về 3 pháp môn căn bản. Sáu là nói về ba lọai pháp môn. Bảy là làm chỗ đọan nghi. Tám là nói Trung Đạo. Chín là tăng trưởng niệm Phật Tam Muội. Mười là ba đời chúng sanh như thật phân biệt tội phứơc hai môn. Nay lược chỗ kia phần một nói về Bồ Tát Đạo để nói kinh nầy.
Thời gian đầu từ Hội Hoa Nghiêm đến cuối cùng là Pháp Hoa, tập hợp các kinh Đại Thừa rồi nói Bồ Tát hạnh. Nay vì nhân duyên gì mà lại nói nữa?
Đáp rằng: có 2 Bồ Tát. Một là trực vãng; hai là vu vãng. Nay lại bỏ Tiểu vào Đại Bồ Tát cho nên nói kinh nầy.
Hỏi rằng: Dùng việc được trí của Hoa Nghiêm để làm trực vãng. Nay lại trở lại nhỏ để nhập vào lớn mà nói?
Đáp rằng: Theo phẩm Dũng Xuất nói: Những chúng sanh nầy đầu tiên thấy thân ta khi tịch diệt nơi đạo tràng thấy Lô Xá Na nghe chỗ ta nói; nghĩa là dạy Hoa Nghiêm để trừ trước tiên những kẻ tu học Tiểu Thừa, liền rõ biết ở trước chưa làm như người nầy, nay lại làm cho được nghe kinh nầy, khiến nhập vào Phật huệ . Cho nên rõ biết bây giờ liền quay về từ Tiểu.
Hỏi rằng:vì sao trứơc lại trực vãng. Sau đó lại trở lại Tiểu?
Đáp rằng: Tu hành xa gần riêng biệt. Hai là vì thọ nhận sự thỉnh cầu của Phạm Vương cho nên nói kinh nầy.
Hỏi rằng: Ngày xưa dạy Bát Nhã và sự chỉ bày kia đã làm rõ cho sự thưa thỉnh nầy và với nay có gì khác chăng?
Đáp rằng: Thỉnh lại có hai lúc và mời ấy cũng lại có hai lọai. Đầu tiên thỉnh nói căn bản pháp luân. Nay thọ thỉnh cùng với xưa có khác. Như Phẩm Phương Tiện và Trí Độ Luận quyển đầu đã nói. Ba là muốn làm rõ ba đời chư Phật quyền thật 3 trí tướng thành tựu; cho nên nói kinh nầy. Phi thật chẳng thể hiển quyền. Phi quyền chẳng thể hiển thật. Thật ấy có công khởi quyền. Quyền ấy có tư lương thật dụng.
Câu văn phía dưới nói. Đối với một Phật Thừa phân biệt nói ba; tức là từ Thật khởi Quyền. Ta dùng phương tiện nầy khiến cho vào trí huệ Phật. Tức là dùng Quyền thông qua Thật. Lời dạy kia chạy đi hoặc chấp Quyền, quên Thật. Ngày trước chấp người Tam Thừa chẳng thể ngộ nhập con đường của nhứt thừa. Hoặc chấp Thật quên Quyền để nghe Pháp Hoa nhứt thừa; nghĩa là không có Tam Thừa. Nói phá có thể rõ biết. Bốn là muốn nói 3 pháp môn thanh tịnh. Chúng sanh bổn tánh chưa từng dơ sạch. Đối với chúng sanh điên đảo cho nên thành ra dơ sạch. Lại dơ chẳng thể chặt bỏ vậy. Phật, Bồ Tát dần dần xuất hiện để khai mở 3 việc thanh tịnh. Một là dùng 5 giới, Thập Thiện làm thanh tịnh ba cõi. Hai là nói Nhị Thừa để tịnh ba cõi, sau đó làm rõ Nhứt Thừa để tịnh Nhị Thừa. Dùng Tam Đồ làm chỗ thật khổ. Tam giới làm chỗ khổ vừa, biến hóa dễ dàng làm khổ thấp hơn. Cho nên nói ba biển. Nói 5 việc và 3 pháp môn nhiếp phục để tổng nói về Thánh Giáo. Ở đây có ba cửa. Một là nhiếp tà trở về với chánh môn. Hai là nhiếp sự khác nhau quy về chỗ đồng môn. Ba là nhiếp nguyên nhơn quy về qủa môn.
Về nhiếp tà quy chánh môn nghĩa là Đức Thích Ca chưa ra khỏi cõi phàm tình có 2 tà của một tại gia ngọai đạo, khởi lên thương mến chúng sanh; hai là xuất gia ngọai đạo, khởi lên thấy chúng sanh. Làm cho trở nên chánh đạo; nên gọi đó là tà. Ở nơi phẩm Phương Tiện dùng các món nhơn duyên, đọa lạc vào tam đồ; tức là khởi lên lòng thương chảy vào tà kiến, tòan là thấy những ngọai đạo. Như Lai ra đời nhiếp phục điều kia và hai tà ấy trở về Ngũ Thừa là chánh. Ở trong hai ấy có vô văn phi pháp, dùng người trời để thành tựu. Ba tánh ấy là 3 thừa nhiếp vậy. Nhiếp hai tà kia để trở về thì gọi là 5 việc chánh.
Hai là nhiếp điều khác để trở về cùng giống nhau. Nếu kẻ ngộ một con đường rồi thì chẳng nói ra, vì kẻ độn căn mà lưu bố vậy. Chỉ có xả bỏ hai việc tà chấp, Ngũ Thừa sai khác và nhiếp 5 việc khác nhau ở phía trước đồng trở về Nhứt Thừa.
Ba là nhiếp nhơn để quy về quả. Lìa việc nhiếp 5 ấy quy về một, chỉ là nhơn hạnh. Muốn làm cho tu nhơn chứng qủa tốt; nên nói Như Lai xưng chơn và ứng hóa hai thân để nhiếp nhơn trở về quả. Sáu điều muốn nói 3 lọai pháp môn. Một là căn bản pháp luân. Hai là chi mạt pháp luân. Ba là nhiếp mạt quy bổn pháp luân. Phật lúc mới thành đạo vì chư Bồ Tát mà nói Hoa Nghiêm là căn bản pháp môn. Những kẻ bạc phước độn căn chẳng nghe thấu; nên nói Nhị Thừa để chỉ bảo là chi mạt pháp luân. Hơn 40 năm nói pháp và nay làm cho Pháp Hoa nầy quy về một; nên liền nhiếp mạt quy bổn.
Hỏi rằng: nơi nào có câu văn ấy?
Đáp: Nơi phẩm Tín Giải nói rằng: Khi thấy Trưởng Giả ngồi tòa Sư Tử đầy đủ của trân bảo; tức là chỉ cho Hoa Nghiêm làm giáo pháp căn bản. Gọi con mà chẳng được nên liền cùng hai người cởi bỏ y phục qúy giá, mặc đồ của người hốt phân, áo xấu ở nơi thấp hèn và giả gọi là con. Đây chính là vì chi mạt giáo. Sau đó mới hội thân tộc lại và phú chúc tài sản cho. Đây là nhiếp mạt quy bổn.
Bảy là vì muốn trừ nghi của Thanh Văn Bồ Tát cho nên nói kinh nầy. Như cách giải mới phân biện. Tuy có một ít sai biệt và lược nói chẳng rõ hết vậy. Tám là muốn nói pháp Trung Đạo; cho nên nói kinh nầy.
Hỏi rằng:Vì sao rõ biết được?
Đáp rằng: Hai lần thuyết pháp. Đầu tiên đều phóng tướng lông trắng giữa chặn mày. Trên chẳng quá đầu, dưới chẳng qúa chân. Phóng hào quang giữa chặn mày là biểu hiện hai lần nói Trung Đạo vậy. Lần đầu tiên làm rõ con đường thanh tịnh; tức là nhứt thừa. Lần thứ hai là làm rõ pháp thân thanh tịnh; tức là chơn thật thân.
Hỏi rằng:Vì sao lại làm rõ Trung Đạo?
Đáp rằng: Xưa nói Ngũ Thừa là vì muốn làm hiển thị 5. Lời dạy kia theo sự nghe 5 thừa mà tạo nên 5 sự giải thích sai khác rơi vào các biên (kiến). Lời dạy cho người trời kia là ở nơi sanh tử. Kẻ cầu Nhị Thừa rơi vào Niết Bàn biên. Kẻ học Đại Thừa chấp trước vào Đại Thừa biên. Nay phá những biên kiến nầy làm cho tâm không còn chấp trước nữa.
Chín là vì làm tăng việc niệm Phật Tam Muội cho nên nói kinh nầy. Từ xưa chưa làm rõ thân chân thật và thân phương tiện. Phàm phu nhị thừa bắt đầu thể hiện. Bồ Tát chưa rõ Phật cho nên chẳng thể giải rõ được lễ niệm. Thường có chỗ được tâm lễ niệm; tức là lễ niệm ấy có chỗ được tâm. Vì sao chưa thể niệm nơi Phật. Cho nên Phật chẳng phải Thầy của kia, mà kia cũng chẳng phải là đệ tử của Phật. Nay khai mở thân phương tiện và thân chơn thật, mới giải bày ở lễ niệm.
Hỏi rằng: Ngày xưa vì sao mà chẳng giải rõ về lễ niệm?
Đáp rằng: Xưa kia chấp về số nhiều mà chẳng ra khỏi 3 lọai. Một là chẳng biết Bổn một Tích nhiều. Hai là chẳng rõ Bổn ấy chẳng hề sanh diệt ở nơi sanh tử. Ba là chẳng rõ Đức Thích Ca từ lâu xa đã chứng Pháp Thân; không phải nơi Già Da mới bắt đầu có. Đây là ba lọai bịnh; cho nên thị hiện làm ba lọai giáo môn. Một là làm rõ việc Đức Thích Ca ở nơi Tịnh Độ và chư Phật ứng thân bất nhị. Cho nên biết rằng ứng thân bất nhị là Tích thân bất nhứt. Hai là mở tháp cùng ngồi. Hiển thị Đa Bảo diệt nhưng chẳng diệt; tức là rõ biết Đức Thích Ca chỉ sanh nơi chẳng sanh và chẳng sanh nơi chẳng diệt; gọi đây là pháp thân. Phương tiện nói diệt; gọi là Tích dụng vậy. Sanh vào vương cung mà chẳng khởi, Song Lâm diệt mà chẳng mất. Tích tuy sanh diệt mà pháp thân chưa hề khởi hiện. Ba là quá khứ đã thành lâu rồi và vị lai chưa diệt; nên gọi đây là pháp thân. Nhiên Đăng thọ ký, Già Da thành đạo, nhơn ấy chính là phương tiện.
Hỏi rằng: Đức Thích Ca chứng pháp thân. Vậy pháp thân ấy có xa gần chăng?
Đáp rằng: Pháp thân thì chẳng xa gần. Pháp thân chẳng xa gần; tức là rõ được chỗ chẳng xa gần ấy. Cho nên mới nói rằng: Ngộ ấy gốc ở pháp thân, mà pháp thân thì không có xa gần; tức là rõ biết được chỗ chẳng xa gần ấy.
 Vì sao lại muốn làm rõ 3 việc nầy?
Đáp rằng: Đầu tiên tức là pháp thân bất nhị. Tích thân bất nhứt. Chưa rõ thân bất nhị làm thân sanh diệt, mà thật ra chẳng sanh diệt vậy. Kế đến làm rõ pháp thân vô sanh diệt còn ứng thân thì có sanh diệt. Tuy rõ pháp sanh diệt; nhưng pháp, ứng lại có khác. Chưa rõ được Đức Thích Ca từ lâu xa đã chứng pháp thân, vì chứng lâu xa vậy. Kế đến làm rõ việc xa gần nầy. Tất cả chư Phật đều đầy đủ 2 việc như trước. Đức Thích Ca thì đầy đủ cả 3.
Hỏi rằng: Làm sáng tỏ việc niệm Phật như thế nào gọi là niệm?
Đáp rằng: Như trong kinh Đại Phẩm nói rằng: Dùng sự vô ức cho nên hiển thị điều nầy để trừ phân biệt chỗ không thấy. Phật vì chỗ niệm, sanh vì hay niệm. Như thể của chân lý mà vì lễ niệm. Như phẩm An Lạc và phẩm Thọ Lượng đã nói rõ.
Mười là muốn vì vị lai thập phương chúng sanh như thật phân biệt sự ích lợi. Tội phước hai lọai nghiệp báo như hành nghi đã nói. Mười ý nghĩa gần gũi làm rõ chánh tà. Kinh ấy được gọi là cửa ngõ chú giải. Trong ấy nói rằng: nương vào thuận theo thể nghĩa xứ và trong ấy nguyên nhơn xuất thế , phước báo. Nương vào Tông Luận chú giải rằng: Việc ấy có 4 lọai. Nghĩa là: giáo, lý, hạnh, quả. Lược nói lại có 3. Ngược lại điều nầy cũng có 3. Một là lời nói vô nghĩa, như luận của bốn Vệ Đà, kệ tụng của Bà La Môn. Âm thanh thanh nhã, sâu xa dễ mến. Thường hay tìm nghĩa nầy và cả hai đều chẳng là chân lý. Như luận kia nói rằng: Ta như đã uống nước cam lồ thành tựu, chẳng trở lại sanh tử nữa. Hai là nói lời tà vọng. Như 95 lọai ngọai đạo khác, lại nói về nhơn quả, thường làm rõ chỗ tà ty, cho nên nói là tà vọng. Ba là như pháp để nói. Như Phật đã nói nơi nhơn quả đạo lý, nói về khổ tập. Đây chính là nhơn quả thế gian. Diệt đạo ấy là xuất thế nhơn quả. Đạo lý tuyên xưng chẳng tà ngụy. Cho nên gọi đây là nói như pháp. Lý ấy lại có 3. Một là nghĩa tăng trưởng ích lợi. Như ngọai đạo đối với pháp vô ngã, ngang ngược với pháp của ta. Hai là nghĩa tổn giảm. Như những việc tà kiến và đọan kiến vậy. Ba là nghĩa thuận thể, như giáo pháp của Phật có liền nói có, không liền nói không. Đọan lìa thường kiến, cho nên gọi đây là thuận thể. Hành ấy lại có 3. Một là thuận theo nhơn quả của thế gian, như việc đời, trung với vua, hiếu với cha mẹ v.v...Hai là nguyên nhơn của tà ty. Nghĩa là vọng nói những điều tà giới cấm v.v...Ba là ở trong nguyên nhơn. Như ở cửa Phật Pháp lìa khổ lạc biên, lìa tà để cầu vậy. Quả ấy lại có 3. Một là quả xiểm trá, như bẻ quanh từ cuộc sống để tìm chỗ sung sứơng. Hai là qủa hư vọng , như những ngọai đạo vọng nói tính tóan vô tưởng về Niết Bàn vậy. Ba là xuất thế quả, như giáo pháp của Phật hay làm cho chúng sanh ra khỏi chỗ sanh tử chứng được Niết Bàn vậy.
Do nương vào giáo lý hạnh quả mà có tà chánh; cho nên lập thành tên gọi như vậy, làm cho bỏ tà về chánh. Lại nữa vì được 4 lọai thanh tịnh cho nên làm rõ 4 cách gọi tổng cả . Một là cực thanh tịnh. Hai là nghĩa thanh tịnh. Ba là phương tiện thanh tịnh. Bốn là sở đắc thanh tịnh . Như thế lần lượt lập nên kia. Giáo nghĩa là đầu, giữa, sau đều lành. Lý tức là lìa sự tăng ích tổn giảm kia. Hành nghĩa là lìa khổ lạc v.v...Khổ ấy là phi thế gian các khổ , nương tựa vào các hoặc. Cho nên nói đây là thanh tịnh. Lại nữa vì nương vào sự khoa trương chứng ngộ cái lý và nương vào lý để khởi ra hành và do hành mà được qủa. Nếu chẳng thể đủ thì chẳng phải do ngộ cái lý. Nếu chẳng ngộ lý mà có tà phân biệt, cho nên tạo ra các việc làm ác. Có tà phân biệt cho nên tạo ra các ác hạnh và cảm các quả khổ. Nay nương vào chánh giáo có thể hiển rõ lý chánh, liền chứng chánh lý, có thể khởi lên chánh hạnh. Do chánh hạnh cho nên có thể được quả lành. Do nương vào 4 nơi ấy mà lập nên được tên gọi nầy. Lại do sự dạy dỗ ấy nên sanh nơi có trí huệ. Nương vào lý sinh ra sự suy nghĩ. Nương vào hành sanh ra việc tu. Cái nhơn nầy được quả vậy. Nhiếp Đại Thừa nói rằng: Sự nghe ấy huân tập, không có quả sanh thì chẳng phải đạo lý. Lại có hai lọai. Một là nương vào pháp nhơn và hai là nương vào pháp dụ; hoặc đơn hoằc kép. Nói sao chẳng  -17-
 nhứt định. Vì sao lại như điều nầy? Nương vào người nghĩa là làm cho rõ biết tu sáu hòa kính. Nương vào pháp nghĩa là làm cho rõ biết nghĩa đen và pháp lớn v..v...Nương vào pháp dụ nghĩa là vì kẻ độn căn, rộng lược cho sáng tỏ cho nên từ nơi chốn đến công việc. Tất cả trong pháp ấy tóm thâu; nên gọi là rộng rãi vậy. Đối với những nghĩa trên giáo pháp ấy đã thành cách gọi, duy chỉ có chúng sanh nhiều khi chẳng ra khỏi nơi nầy. Hãy như Nhiếp Luận nói về tên gọi nầy có tổng cả đến 10 lọai. Tụng ấy nói về pháp, chúng sanh, pháp, nghĩa, khác, rộng, tánh, bất tịnh, tịnh, cứu cánh. Gọi đây là chỗ hành sai biệt.
Đầu tiên pháp ấy nghĩa là sắc, thọ v.v...Chúng sanh có nghĩa là trời, người thế gian và cũng còn gọi là tùy tín hành cùng với tên gọi thánh giáo. Sau đó pháp nầy được gọi là khế kinh. Nghĩa ấy nghĩa là ở đây rộng nói về giả thiết sự nguy hại đối với cha mẹ. Lược gọi là tất cả pháp vô ngã vậy. Quảng ở đây có nghĩa là sắc vô ngã. Tánh gọi các chữ, các từ, các câu là cái nhơn vậy. Bất tịnh nghĩa là những sự sai biệt sanh ra những phiền não cấu nhiễm. Tịnh ấy nghĩa là các vị hiền thánh việc cấu nhiễm đã vĩnh viễn xa lìa. Cứu cánh nghĩa là tổng thể các duyên ; tức là Bát Nhã Ba La Mật Đa cùng với Thập Địa v.v...Dùng nghĩa tổng lược để làm chỗ duyên vậy. Ở đây có 5 đối nghịch. Một là pháp đối nhơn. Hai là nghĩa đối giáo. Ba là lược đối rộng. Ba điều nầy lần lượt như vậy. Bốn là nhiễm đối với tịnh. Gọi là phần 8,9. Năm là phân biệt đối với phi phân biệt. Lại cũng gọi là nhơn đối với quả. Phần thứ 7 và chữ thứ 10 vì ngòai nhơn cho nên phân biệt làm cho hiển thị 10 cái lý của cứu cánh. Cho nên gọi là vô phân biệt. Ở trong ấy phần thứ hai 8,9 là cách gọi từ con người. Ngòai ra là cách gọi từ pháp. Bây giờ làm rõ gíao nghĩa tức là cách gọi của đệ tam khế kinh vậy.
Du Già 81 tên gọi ấy có 12. Tụng nói rằng: giả, thật, đồng, dị, lọai, tùy đức và giả nói, đồng, phi đồng, chỗ hiển rõ, chẳng hiển, rộng, lược một. Giả lập gọi như thế là đối với nội giả lập ngã, hữu tình v.v... Đối với ngọai giả lập là ngói gạch v.v...Nghĩa là đối với mắt, sắc ấy cùng với các căn trong nghĩa ấy lấy mắt để gọi. Cùng lọai giống nhau nghĩa là có tánh của sắc, thọ, gọi là cái nhân lớn. Khác lọai tương ưng nghĩa là Phật thọ ký cho cái đức gần gũi. Tùy đức nghĩa là tính chất nghi ngại danh sắc bao gồm cả thọ. Giả thiết nghĩa là xưng nghèo, gọi giàu v.v...Cùng chỗ rõ tên nghĩa là cùng chỗ rõ biết với tướng sai biệt có không. Đồng liễu hiển nghĩa là nghĩa ấy để vậy. Chẳng hiển nghĩa là nghĩa ấy khó liễu được, như chú Đạt La Thôi Trà v.v...Lược danh nghĩa là một chữ. Quảng ấy có nghĩa là nhiều chữ. Trong nầy có 6 cách đối lại . Một là tùy ấy rộng đối giữa thật và giả. Hai là cùng lọai khác với khác lọai. Ba là xưng thể hư đối với giả thiết. Bốn là cùng đối với chẳng cùng. Năm là nghĩa rộng đối với khó dễ. Lại cũng còn nói rằng rộng ấy là tiêu đề đối với mật. Sáu là có thể rộng đối với lược. Tuy là 12 tên gọi nhưng chẳng ra khỏi pháp nhơn. Văn ấy hiển thị có thể rõ. Nếu biện giải về giáo ấy thì tùy theo chỗ nghĩa nầy có thể thông suốt được. Thông qua các luận và các việc thành lập chỉ bày, tên gọi chẳng giống nhau. Tổng cộng mở ra có 6 ví dụ. Một là nương vào 6 sự giải thích để thông biệt. Hai là giáo, lý, hạnh, quả thông biệt. Ba là nhơn pháp thông biệt. Bốn là pháp dụ thông biệt. Năm là Tam Bảo thông biệt. Sáu là tán thán thông biệt; hoặc nay hợp lại làm hai. Đó là nhơn pháp. Ở phía trước căn cứ vào 6 chỗ thông biệt, lại có nhiều lọai, như nương vào sáu cách giải thích; hoặc duy chỉ có một. Hoặc thông 2,3,4,5,6 v.v...hoặc chẳng phải chỉ có một mà có hai cách giải thích. Như trong kinh Niết Bàn thể ấy thông với việc chú thích rõ ràng chỗ giải thích; tức là có giữ nghiệp và nương vào sự chú thích. Hoặc thông với 3 sự giải thích. Như Thành Duy Thức Luận văn, Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Tạp Tập Luận v.v...
Có thông y chủ, trì nghiệp, hữu tài, như chánh pháp niệm kinh v.v...tức là thông trì nghiệp, y chủ, lân cận. Ngòai ra có thể so sánh để biết; hoặc có thể chẳng có 6 việc gỉai thích nâỳ. Nếu nương vào giáo lý hành quả, 4 cách gọi thông biệt; thì thông âý liền có 15. Biệt ấy có 4.2,3 mỗi mỗi có 6,3,3 hợp chung lại thành 4,4 và 4 ấy hợp lại 1. Lời dạy sau cùng nhiều nghĩa nhẫn nại ở Kinh Niết Bàn. Như thế lần lượt giáo lý hạnh quả 4 tên riêng lẽ. Hai hợp với hai như Kinh Giải Thâm Mật nói về giáo lý thâm mật ấy. Trong kinh Đại Phương Quảng Bồ Tát Thập Địa có chỉ về hạnh hợp nầy. Trong kinh Xưng Tán Phật Công Đức có chỉ về qủa hợp nầy. Như kinh Tín Đao Nhập Ấn có lý hành hợp nầy. Trong Kinh Như Lai Nhập Nhất Thiết Cảnh Giới có lý quả hợp nầy. Trong kinh Như Lai Cầu Phật Bổn Nghiệp có hành quả hợp nầy. Ngòai ra cũng có thể hiểu rộng hơn về pháp nhơn đơn hợp. Tất cả đều có thể rõ biết dễ dàng. Dụ về người gọi như trong Bồ Tát Anh Lạc Bổn Nghiệp. Dụ về người, pháp hợp như Kinh Thắng Man Sư Tử Hống Nhứt Thừa Đại Phương Tiện. Tam Bảo đơn hợp nghĩa là có Kinh A Súc Phật, kinh Tứ Phần Giới, kinh Thuyết Vô Cấu Xưng Tam Bảo như thế. Kinh Như Lai Công Đức Trang Nghiêm, Phật pháp hợp danh. Kinh Phật Đại Tăng Đại; gọi là Phật Tăng hợp. Kinh Bồ Tát giới gọi là Pháp Tăng hợp. Kinh A Nan nghe Phật tốt xấu, gọi Tam Bảo hợp. Như trên tổng cộng đã thành lập, tên gọi chẳng giống nhau. Rộng hơn thì ở luận Duy Thức có trình bày, sao chép, sợ phiền ở đây nên lược bớt.
Những người đời sau , trứơc nên thông qua tên gọi và sau đó thì thuần thục kinh nầy. Kinh nầy gọi là phần giữa của hai. Đầu tiên nương vào chỗ sớ giải biện bạch. Sau đó thuật lại và làm rõ chỗ khác nhau. Trong sự khác nhau của việc thuật lại thì đầu tiên giải về pháp vi diệu. Sau đó biện luận thí dụ. Đầu tiên giải thích về diệu pháp ấy Nam Nhạc Tư Thiền Sư nói có 10 diệu . Một là cảnh diệu, hai trí, ba hành, bốn vị, năm là 3 pháp, sáu là cảm ứng, bảy là thần thông, tám là thuyết pháp, chín là quyến thuộc, mười là công đức lợi ích diệu.
Cảnh ấy tức là 10 như. Trí ấy tức là hay duyên vào bổn hậu hai trí. Trí ấy chỉ đạo để hành. Hành nơi kinh qua gọi là trụ. Trụ ấy nương vào 3 pháp. Nương pháp dùng đến ý vật cơ để làm cảm ứng. Tùy theo chỗ cảm mà hay hiện ra thông; nên gọi là thần thông. Cảm ứng ấy diễn giải giáo lý để thuyết pháp. Nhơn ấy tùy theo Phật hóa độ nghe pháp, có thể ngộ và làm quyến thuộc. Dùng giáo pháp thọ sanh, vì lợi cơ, tùy nhập vào ích lợi gọi đây là công đức lợi ích diệu. Tại sao được trí ấy và có 10 diệu, như câu văn ở dưới sẽ rõ biết.
Phẩm Phương Tiện nói chỉ có Phật với Phật mới có thể hiểu nhau về chư pháp thật tướng; tức là diệu cảnh. Ta từ thành tựu trí tuệ; tức là trí diệu. Đầy đủ các hạnh ở các đường tức là hạnh diệu. Xe ấy chở đồ qúy báu ở nhơn vị đến thẳng đạo tràng là qủa vị; tức là vị diệu. Phật tự tại ở Đại Thừa như được pháp nầy, định huệ lực trang nghiêm; tức là tam pháp diệu. Ta dùng Phật nhãn để quan sát tất cả là ta, con sợ vào nhà lửa, thấy người cha ngồi trên giường, vì đó mà ứng cảm diệu. Nay Đức Phật Thế Tôn nhập vào Tam Muội mưa hoa, đất chấn động, phóng quang từ xa soi rọi; đây chính là thần thông diệu. Có thể nói việc thuyết pháp đầu giữa và sau nói lời lành nhu nhuyến. Việc thuyết pháp nầy tất cả đều đến nhứt thiết trí địa. Hay nói vô thượng đạo và đó là thuyết pháp diệu. Giáo hóa các vị Bồ Tát, không có đệ tử Thanh Văn, đây là vì quyến thuộc dị. Thanh Văn nghe pháp được thọ ký trước Phật, đời sau tùy theo chỗ nghe được phứơc lợi; tất cả là vì lợi ích diệu. Lần lượt sanh khởi để nói nghĩa rộng như bên trên đã giải nói về diệu pháp. Kế đến giải nói về thí dụ, hóa ra nhiều chúng sanh.
Vì sao chỉ riêng nói về liên hoa để thí dụ?
Đáp: Kiết Tạng Pháp Sư nói rằng: Lược có ba nghĩa. Một là lìa khỏi thí dụ; hai là hợp dụ; ba là thông dụ. Nói lìa dụ nghĩa là: một là làm sáng tỏ hoa nầy chẳng có gì như vậy. Trong ấy hoa thật đầy đủ bao gồm trong ấy. Trong kinh nầy chẳng nói mà có rồi. Nói về nhơn quả cùng lúc. Dùng dụ liên hoa đối với nhơn quả vậy. Luận nói về sự thị hiện tướng nhơn quả v.v...Hai là do hoa nở mà biến hiện. Do nói ra mà hiển thị cái lý vậy. Dùng dụ hoa sen để chỉ cho cái lý . Ở phía dưới nghĩa nầy sâu xa, lời nói xảo diệu. Ba là hoa chưa nở, mà thật chưa hiện. Hoa nở tức là thật phương hiện. Chưa mở cửa phương tiện; tức là chơn thật tướng chưa hiển thị. Khai mở cửa phương tiện tức là chơn thật tướng mới hiển thị. Hoa nở dụ cho cửa phương tiện, khai thật hiện dụ chơn thật tướng hiển thị vậy. Cho nên bên dưới nói rằng: khai cửa phương tiện hiển thị tướng chơn thật.
Hai hợp dụ lược nói có 10 nghĩa. Một là hoa từ hạt sanh, dụ cho nhứt thừa, tất có chủng tử khởi. Cho nên phía dưới nói giống Phật từ duyên khởi vậy. Hai là hoa nầy từ bùn nhơ đến, dụ cho Phật thừa dần dần tăng trưởng. Cho nên nói rằng dần dần tích tụ công đức. Ba là hoa nầy tăng trưởng đầy đủ ra khỏi bùn nhơ. Dụ cho Đức Phật ra khỏi chốn sanh tử . Cho nên bên dưới nói rằng: Như Lai đã lìa khỏi ba cõi như nhà lửa nầy. Tịch nhiên nhàn cư an ổn như chỗ rừng vắng vậy. Bốn là hoa nầy tuy rằng ra khỏi chỗ bùn nhơ mà chẳng phải xả bỏ bùn nhơ. Điều nầy dụ cho Phật tuy ra khỏi 4 lưu chuyển mà chẳng bỏ ba cõi. Cho nên ở dưới nói rằng: Ở bên ngòai cửa nghe có người nói, sợ vào nhà lửa; nên mới cản trở gíup đỡ. Năm là hoa nầy thanh khiết đệ nhứt, dụ cho Phật Thừa là đệ nhất trong ngũ thừa. Cho nên nói rằng: Thừa nầy vi diệu thanh tịnh đệ nhất. Đối với các thế gian vì việc có, không là trên hết. Sáu là hoa nầy phàm thánh lìa sự yêu mến và Phật Thừa lại cũng như thế. Thế và xuất thế gian gọi đây là lìa sự yêu kính vậy. Cho nên nói rằng: ở Phật hoan hỷ tất cả chúng sanh nên xưng tán cúng dường lễ bái. Bảy là hoa nầy cùng với đài hoa cùng lúc, dụ cho Phật Thừa vạn đức đầy đủ. Cho nên nói rằng: vô lượng ức thiên các lực giải thóat, thiền định, trí huệ và Phật Thừa không ngòai. Tám là hoa nầy là nơi Phật và Bồ Tát ngồi. Kinh nầy lại cũng như vậy, vì Phật Bồ Tát mà cùng ở chung. Cho nên nói rằng: Phật tự tại lại như nơi pháp mà được. Định huệ lực trang nghiêm, dùng đây để độ chúng sanh. Chín là hoa nầy nở khép đúng lúc, dụ cho Nhứt Thừa này ẩn hiện có lúc. Ngày trước ẩn, nay hiện. Cho nên nói rằng: tại sao chưa thể nói. Vì lúc nói chưa đến. Nay chính là lúc đúng thời; nên quyết định nói Đại Thừa. Mười là hoa nầy kiếp sơ lúc mới thành Phạm Vương ngồi trên ấy và vì chúng sanh làm cha. Kinh nầy lại cũng như vậy; cho nên nói rằng: Đại Phạm Vương là cha của tất cả thế gian. Kinh nầy lại cũng như thế, vì tất cả thế gian làm cha; vì tất cả hiền thánh làm cha. Ngòai ra có nơi lại nói Trí Độ Bồ Tát là mẹ, dùng phương tiện làm cha v.v...
Nói về Thông Dụ thì Đại Tập kinh nói rằng: Từ Bi là gốc hạt, trí tuệ là hoa lá. Tam Muội là búi tóc, giải thóat là quả, Bồ Đề là ong chúa, Niết Bàn là cam lồ. Cho nên ta đãnh lễ kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Lại giải thích rằng: Sỡ dĩ nói diệu là diệu ấy bất khả tư nghì vậy. Pháp nghĩa là xưng tán 10 lọai quyền, thật. Liên Hoa dùng để dụ cho pháp quyền thật . Tốt dùng diệu pháp khó giải, từ gần dụ xa, huống hồ là ý và nhiều chỗ giải thích lược bớt trước sau để hợp thành sáu dụ. Một là Liên chính là Hoa; dụ cho Thật mà cũng Quyền. Cho nên rõ biết tịch diệt đệ nhất, dùng phương tiện vậy. Tuy chỉ ra nhiều con đường; nhưng kỳ thật chỉ một Phật Thừa. Hai là hoa ấy dụ cho khai quyền. Liên ấy hiện ra để dụ cho hiển thật. Câu văn phía dưới khai mở cửa phương tiện, hiển tướng chơn thật. Ba là hoa rơi dụ cho việc phế bỏ quyền. Liên thành tựu dụ cho việc thành lập là thật. Câu văn phía dưới ngay thẳng phương tiện, thường nói đạo vô thượng. Bốn là lại dụ Liên ấy với Bổn. Hoa ấy dụ cho Tích. Từ Bổn xuống Tích. Tích nương vào nơi Bổn. Câu văn phía dưới nói về lúc kiếp trược lọan thời...cho đến nói cho nên chư Phật Như Lai dùng phương tiện lực đối với một Phật Thừa để phân biệt nói thành ba v.v...Hai việc của hoa dụ cho khai Tích. Nên phía dưới nói rằng: Các ngươi nên lắng nghe. Như Lai nói lực bí mật của thần thông, cho đến từ khi ta thành Phật đến nay đã trải qua vô lượng. Sáu là hoa ấy dụ cho phế Tích. Liên thành tựu dụ cho lập Bổn. Câu văn phía dưới nói rằng: Tất cả pháp của các Đức Phật đều như vậy. Vì để độ cho chúng sanh, tất cả đều thật, không hư dối. Vì thế nên đầu tiên mở ra diệu pháp; kế đến dụ cho hoa sen biến hóa to thành to lớn để chấp vào lời dạy, phá bỏ cỏ, làm cho chỗ ở sạch sẽ. Khai mở cửa phương tiện, chỉ bày diệu lý chơn thật. Gom vạn điều tốt vào vệc làm nhỏ. Thâu rộng lớn vào Nhứt Thừa. Tất cả những người thuộc thượng, trung, hạ căn đều thọ ký. Lại phát huy quyền hành cho các bậc Thánh. Hiển hiện gốc gác vi tế. Cho nên đạo ấy tăng giảm, 4 lòai gần gũi Đức Đại Giác một thời hóa đạo lý, hiện ra đầy đủ tất cả. Hoa sen ấy dụ cho ý niệm hoan hỷ vậy. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét