Tìm kiếm

Thứ Hai, 5 tháng 8, 2013

ĐẠI CHÁNH TÂN TU ĐẠI TẠNG KINH PHÁP HOA HUYỀN TÁN NGHĨA (tiếp theo)



 (Tiếp theo)
Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013 (Chùa Khánh Anh) Pháp Quốc, cuối tháng 3 năm 2013.


 Nói Phẩm ấy có không. Giữa ấy nói 5 việc lớn, 3 nhỏ chẳng dễ, vì để cho con đường chư Thiên Đế Thích an ổn nên nói. Cách dịch ấy vì trình bày 5, mất cái chính hết 3, chẳng phải dễ. Một là tiếng Phạn trong sách ấy cho đến Bổn ấy khiến trình bày. Một là mất Bổn. Hai là kinh tiếng Phạn chất lượng cao, người trình bày thích câu văn, có thể truyền đến tâm chúng sanh, chẳng phải văn từ thì chẳng được. Hai là mất đi Bổn. Ba là câu văn chữ Phạn đầy đủ, cho đến việc than vịnh chắc rằng hàm chứa khác; hoặc giả 4 ấy chẳng gồm việc não hại nầy, mà nay ghi lại đây vậy. Ba là tất cả đều là Bổn. Bốn là chữ Phạn có nghĩa nói đúng là giống như lọan từ. Tìm tòi kiểm tra hướng đến ngôn ngữ, câu văn lại chẳng khác. Hoặc một ngàn, hoặc năm trăm, nay thì chẳng còn tồn tại. Bốn là mất Bổn. Năm là việc ấy giống như được tác thành; nên gần giống như là trái lại với ngôn từ phía trước. Từ đây về sau sẽ nói để trừ nghi. Năm điều nầy mất bản chính.

Kế đó tâm của Trí Kính Tam Đạt muốn làm đầy đủ bộ mặt để diễn giải chỗ Thánh, tất nhiên cái nhơn lúc ấy với người tục lại khác mà thường thì sách ấy hay với xưa, rồi thích nghi với nay; đây chẳng phải là chuyện dễ vậy. Kẻ phàm bị tổn thương, Thánh nhân thì gần gũi. Những điều muốn ghi chép cho ngàn lời nói, cốt truyền lại thích hợp cho trăm vua và dưới là muôn họ. Hai việc nầy chẳng dễ. A Nan Xuất Kinh rõ biết Phật chưa lâu. Tôn Giả Đại Ca Diếp làm cho 500 vị lục thông thay đổi, kinh sách cũng thế. Nay đã xa cách cả ngàn năm, chỉ nương với ý để chép. Những vị A La Hán kia cũng chẳng khác gì điều nầy. Việc sanh tử của những kẻ phàm phu thường thường là thế, há chẳng rõ pháp mà nghi ngờ ư. Tách rời ra 3 việc ấy chẳng dễ. Sư thấy từ 5 thành 3 cũng chẳng dễ. Thích Phạm vì đó trình bày. Kẻ cuồng có thể chẳng trấn được, để rõ các phẩm kinh, được gọi trung ấy có hai. Đầu tiên là giải thích tên từng phẩm chẳng giống nhau. Lại nữa làm rõ được tên gọi. Tên gọi chẳng giống như Kinh Chánh Pháp Hoa nói nơi phẩm Quang Doan, phẩm Phương Tiện, phẩm Ứng Thời, phẩm Giải Lạc, phẩm Dược Thảo, phẩm Thọ Thanh Văn Quyết, phẩm Vãng Kiết, phẩm Thọ Ngũ Bá Đệ Tử Quyết, phẩm thọ A Nan La Vân Quyết, phẩm Dược Vương Như Lai, phẩm Thất Bảo Tháp, phẩm Đề Bà Đạt Đa, phẩm Nhập Bảo Tháp, phẩm Khuyến Thuyết, phẩm An Hạnh, phẩm Tha Địa Dũng Xuất, phẩm Như Lai Hiện Thọ, phẩm Hành Phước Sự, phẩm Cần Minh, phẩm Thán Pháp Sư, phẩm Bị Khinh Mạn, phẩm Như Lai Thần Túc Hành, phẩm Dược Vương Bồ Tát, phẩm Diệu Hống Bồ Tát, phẩm Quan Thế Âm Phổ Môn, phẩm Tổng Trì, phẩm Tịnh Phục Tịnh Vương, phẩm Lạc Phổ Hiền. Chưa nói Phật nói phẩm nầy; lúc ấy như hằng hà sa ức, trăm ngàn Bồ Tát hội tụ tất cả đều được Tổng Trì. Phẩm Chúc Lũy. Giải thích các phẩm trong sự phế lập. Chúc Lũy lại ở trước phẩm Dược Vương; cho đến có 8 việc sai khác về thập chứng chúc lũy; nay ở trước phẩm Dược Vương. Bây giờ trở lại như vậy cho nên chứng được và thường sai hóa Phật trở lại nước. Tháp của Phật Đa Bảo chưa hòan lại; hai việc không lời, Phật tán thán chứng đạo. Trong phẩm Dược Vương lại nói về Tháp, ca ngợi 3 diệu âm, hân hoan kính ngưỡng việc chứng đạo. Từ dưới đất vọt lên biến thể phân thân. Diệu Âm hay đãnh lễ hai vị Phật; 4 uế độ chẳng thanh tịnh, chứng được. Hóa Phật chưa hòan lại. Thí dụ nầy làm cho thanh tịnh. Diệu Âm đến, ngày ấy tại sao bị biết? Năm lần hỏi Phật đến chẳng chứng. Nói rằng Đa Bảo Như Lai đến nghe pháp chăng? liền chẳng thấy Đa Bảo, khiến tháp đóng cửa, sáu là muốn thấy Đức Đa Bảo chứng đạo. Nếu chưa đóng cửa tháp thì hai vị Phật cùng ngồi, chính mỗi người đều thấy, cần thỉnh để thấy sao? Bảy là thỉnh thấy, tuy chỉ nghe việc chứng, liền nghe được âm thanh; chẳng nói là thấy Phật. Trí sáng đã khép lại. Tám là cung kính tháp; không có Phật chứng; hai Đức Phật cùng ngồi; nên đãnh lễ hai vị. Vì sao lại nói lễ tháp Đa Bảo? Chín là chia hai chẳng rõ chứng. Hóa Phật nếu như chưa hòan lại. Vì sao lại chẳng phụng thí. Mười là chẳng phân biệt chứng phân thân. Nếu phẩm Dược Vương thí dụ có hóa Phật. Sao lại chẳng có câu văn nói chứng? Đây chính là 10 điều chứng theo chúc lũy, chẳng phải về sau. Rộng như kia nói, kính tin tìm hiểu, lý màu, câu văn thông suốt, thì nghĩa ấy có hằng ngàn cách. Nay việc phiên dịch quy về sách cũ như cái đức ở trên. Cho nên 10 chứng chúc lũy ấy nay nói trước, như có 10 việc chẳng thể. Cho nên Chúc Lũy lại ở phần sau của kinh nầy. Một là làm cho trở lại như xưa, chứng chẳng thể được. Chẳng có lời nói như vậy, nên thường hay làm cho tháp đóng cửa, chẳng trở lại nước mình. Kinh Chánh Pháp Hoa nói rằng: Đa Bảo Thế Tôn làm cho Thất Bảo giảng đường ở nơi tháp Phật hòan lại như cũ. Cho nên nơi ấy lại chẳng có thể nói. Kinh gốc chỉ có sai biệt; tuy một vị Phật nói lại chẳng đồng, thấy nhỏ, nghe khác. Hai là chẳng nói Phật tán thán việc chứng đạo là chẳng thể.
Phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự nói rằng: Đức Đa Bảo Như Lai ở nơi tháp Thất Bảo tán thán nói rằng: Lành thay! lành thay! tuy mở tháp báu; Phật chẳng ở đấy. Nay nói Đa Bảo ở trong tháp tán thán nói lời lành thay; chẳng phải nói tháp tán thán, nói chẳng phải Phật tán thán, chứng chẳng thể lời nầy. Ba diệu âm khai mở, kính chứng chẳng thể. Ở phía dưới đất vọt lên đãnh lễ phân thân Diệu Âm chẳng lễ; tức là đã chứng rồi. Lại nữa Văn Thù chẳng lễ phân thân, rồi đi. Phẩm Đề Bà Đạt Đa lại cũng nói như vậy. Cho đến hai Đức Thế Tôn, chỗ tu kính đã hòan tất, qua nơi Ngài Trí Tích; chẳng nói biến lễ, há hóa Phật đi khỏi; cho nên lấy đó mà chẳng thể. Bốn uế độ phi tịnh, chẳng thể chứng được. Nếu dùng Diệu Âm để chỉ bày cho kia trở lại nơi uế độ thì ứng hóa Phật đến Linh Sơn, ra khỏi nơi ấy thì chẳng tịnh. Nếu nói rằng chỉ có các núi lớn mới căn cứ vào bổn tính để nói về quốc độ thanh tịnh. Diệu Âm thấy uế; nên cũng như vậy . Nếu nói tuy biến Tịnh Độ Linh Sơn thường còn; cho nên chẳng vì đó mà thí dụ. Linh Sơn chẳng uế, biến tịnh để dụ cho sự tồn tại. Liền xuất hiện đá núi như thế thì được điều gì. Cho nên nói tại ấy là nói rộng lúc ban đầu. Như Văn Thù từ biển vọt lên. Thí dụ để nói về núi Kỳ Xà Quật. Khi ấy liền bay lên hư không, nhìn núi là muốn gì? Cho nên từ hư không bảo tháp , căn cứ vào Bổn, nói đến núi, đất đai, rồi khiến mang hoa đến. Cho nên rõ biết căn cứ vào Bản chẳng phải tịnh độ ở trong, có thể có trong núi Kỳ nầy. Bản văn phía dưới nói rằng:
Lúc ấy ta và chúng tăng đều ra khỏi núi Linh Thứu. Lại căn cứ vào nơi Bản để nói. Nếu nói theo kinh nói thì chỉ lưu lại hội chúng, mà lưu lại người, núi thì chẳng phải. Chúng ấy làm cho nghe pháp, Bản ấy có thể giữ lại nơi núi, chẳng nghe kinh được lưu giữ, có ích gì? Cho nên nói uế độ chẳng phải tịnh, chứng chẳng thể được. Năm lần hỏi Phật đến, chẳng chứng chẳng thể được. Vì sao Văn Thù mong thấy Diệu Âm. Đức Thích Ca Như Lai nói Đa Bảo Như Lai có thể vì các ngươi mà hiện ra việc nầy. Lúc ấy Phật Đa Bảo bảo Ngài Diệu Âm rằng: Thiện Nam Tử đến. Văn Thù Sư Lợi muốn được gặp, do Đức Phật triệu đến. Thế nào là hỏi thử? Hỏi ấy là vì truyền lại lời Phật; cho nên kinh nói rằng: Tịnh Hoa Trí Phật vấn tấn Đức Thế Tôn. Lại hỏi rằng Đa Bảo Như Lai đến để nghe pháp chăng? Chẳng phải Diệu Âm tự hỏi; cho nên chẳng có thể. Khi ra khỏi sự mong muốn thấy Đa Bảo chứng thì chẳng thể. Nếu nói hai Đức Phật đồng ngồi; tức là có thể thấy đầy đủ, sao cần phải thỉnh Phật?
Ta nay muốn thấy Phật Đa Bảo nghĩa là Bồ Tát hạ nhơn, Như Lai thượng quả, gia bị làm cho thấy, có thể được gặp tôn nhan. Nếu chưa gia bị thì chẳng thể thấy được. Hy vọng Phật gia bị; cho nên thỉnh cầu được gặp. Vả lại Diệu Âm sẽ đến; nên Văn Thù cung thỉnh Phật gia hộ. Diệu Âm liền hiện nơi nguyên nhơn để thấy. Do nhờ Phật lực mà cùng đồng chỗ ngồi, thỉnh rồi mới thấy. Nếu chẳng thỉnh để gặp thì tháp liền đóng; cho nên chẳng có thể. Bảy là thỉnh gặp, chỉ nghe chứng thì chẳng thể. Nếu dùng sự thỉnh gặp, trải qua hay xưng gọi; sự tán thán ấy chẳng nói là thấy thân. Tức là làm rõ chỗ chẳng thấy Đa Bảo. Nay thì Văn Thù nuốn gặp Diệu Âm. Kinh chẳng tán thán việc Diệu Âm đến. Văn Thù được gặp. Văn Thù lại ứng chơn, chẳng thấy Diệu Âm. Nếu đã thỉnh gặp rồi thì được thấy, sao lại nói vậy? Diệu Âm muốn gặp liền gặp. Sao trong câu văn lại nói là việc gặp chẳng thể được? Tám là cung kính tháp, không có Phật chứng thì chẳng thể. Vì sao lại nói Diệu Âm kính tháp mà chẳng nói là kính Phật? Sau khi chứng, tháp đóng lại. Khi Phổ Hiền đến lại chẳng nói kính tháp? Tháp lại cũng không. Chẳng được nói tháp, lúc ấy trả qua đi. Câu văn không lưu lại nơi tháp. Tuy chẳng kính tháp, chẳng phòng có tháp. Chẳng nói kính Phật vì sao lại phòng gặp Phật? Lại như sau khi tháp mở, tất cả đều ở trên hư không. Văn Thù Hải Hội nói là nghinh tiếp ở Linh Sơn. Há chẳng biết rằng Phật tại trong bảo tháp? Dùng núi chính, cho nên nói là nghinh thỉnh ở núi. Dùng điểm chính ở tại tháp; cho nên nói rằng kính tháp. Chẳng phải chẳng nghinh tiếp trên hư không và còn thân cận lễ Phật , mà như xưa nói rằng: hoa sen ấy ở dưới chân, cũng chưa hẳn ở nơi đầu gối. Đây chỉ là một từ ngữ kính trọng. Điều nầy nên rõ như thế. Lại nữa nơi Chánh Pháp Hoa có nói việc Quan Âm cúng chuỗi Anh Lạc. Một phần phụng cúng Đức Thích Ca Mâu Ni, một phần phụng cúng Đức Đa Bảo Như Lai; chẳng nói phụng cúng tháp. Rõ ràng là tháp chưa đóng; nên Diệu Âm được thấy. Bây giờ tuy nói đóng; nhưng mà chẳng thể được. Chín là hai phần chẳng rõ việc chứng thì chẳng thể. Nếu dùng Đa Bảo để chia làm hai thì chẳng gặp hóa Phật. Làm rõ biết hóa Phật; cho nên lúc ấy Long Nữ mới phụng cúng Đức Thích Ca và Đa Bảo lại đã qua rồi. Lại nữa Ngài Văn Thù chẳng lễ phân thân của Đức Đa Bảo; Đa Bảo chẳng phải chẳng không. Quan Âm chẳng cúng phân thân, được những gì mà đã đi khỏi? Cung kính lễ rồi; cho nên chẳng thể. Mười là vô biệt phân thân, chẳng thể chứng được. Giá như bên dưới kinh văn chẳng nói về hóa Phật. Sao lại bỏ cái tính ấy lại? Như phẩm Dược Vương chẳng nói đến Thanh Văn, Thanh Văn há chẳng có? Nếu đứng trong phẩm Phổ Hiền để nói; tức là việc chứng ấy hiện có Thanh Văn. Duy chỉ trong Chánh Pháp Hoa phần Chúc Lũy ở nơi kinh chưa có. Việc làm rõ biết hóa Phật lại cũng có như thế. Nghĩa của câu văn nói có thể tức là có thể. Văn nghĩa chẳng đầy đủ. Vì sao lại nói quá vậy? Vì thế cho nên chẳng có thể.
Trong phần chế bản, câu văn nói thứ nhất về phẩm Phương Tiện, sau đó 8 phẩm nói phần Chánh Tông. Một ấy nói cho đến phần phẩm Bất Khinh Bồ Tát lấy làm Chánh Tông. Tuy có hai cách giải thích ý, dựa vào đó để giải thích. Vì sao vậy? Câu văn ở dưới nói rằng: Nay ở trong kinh nầy tuy nói là nhất thừa, lại cũng nói khai cửa phương tiện; tức là hiển quyền thưở xưa; hiển tướng chơn thật; tức là nay nói lời thật. Lại nơi phẩm Phương Tiện lấy làm căn bản chánh để rõ quyền, thật; cho nên nói về hóa thành dụ. Lại nói lại nghĩa trước. Ba căn rộng nói. Ở phía dưới thì tán thán khuyên làm, thuyết pháp đầy đủ, liền đó Trí Tích thỉnh đến. Vì làm rõ chỗ lưu thông; nên hiển kinh thế lực, hóa thành rộng lớn hơn; chẳng phải đây là quyền hiển nơi nhứt thật. Lại nữa nơi luận ấy giải thích rằng: bảo người con như Thanh Văn, làm các việc và muốn làm cho Thanh Văn quay về với việc lớn. Nơi Nhiếp Đại Thừa nói : vì dẫn nhiếp một lọai và nhiệm trì cho nên nói thành hai thừa, mà chẳng bỏ chỗ kia, há nói rằng báo, pháp(thân) chẳng làm khởi lên hóa(Phật)và khi thành Phật rồi chẳng khởi hóa Phật nữa; nên chẳng làm cho việc tu Phật là nguyên nhơn của đức; cho nên rõ biết chẳng phải xả nơi hóa thân, tuy nói pháp, báo(thân). Lại nữa ba Phật ấy đầy đủ Bồ Đề Vô Thượng ; cho nên nói đệ nhứt thiện. Ngòai ra phẩm Phương Tiện làm sáng tỏ cho đến phẩm Thường Bất Khinh làm Chánh Tông. Cho đến phía dưới phẩm Phương Tiện 19 phẩm làm sáng tỏ kinh thể, sau 8 phẩm làm rõ chỗ lưu thông. Tựa ấy làm rõ chỗ dạy dỗ, do thể ấy làm rõ sự lợi ích nơi chỗ ngồi. Nếu dung được sự thọ ký làm ích lợi thì tức là nói phẩm Phương Tiện nầy và dưới đó 8 phẩm làm Chánh Tông. Nếu được chứng thì tất cả được gọi là lợi ích. Sự hướng dẫn của Pháp Sư tốt đẹp cho đến phẩm Phổ Hiền tại sao phải đến Bất Khinh. Điều nầy có lớn có nhỏ; ngòai ra như trứơc đã chế định, được mất có thể rõ biết. Có giải thích về 7 việc thành tựu. Bài tựa, sự thành tựu lại có hai. Một là trong những pháp môn hiển thị có tốt. Hai là tự tại công đức thành tựu. Nói pháp môn tối thắng; cho nên chia ra câu văn thành tựu nơi lời tựa. Tự tại công đức; cho nên chia ra làm sáu lọai. Đây chính là sự giải thích về luận đúng, sai.
Luận ấy tự phân chia ra bảy thành tựu như đã nói. Lại nữa phần tựa thành tựu; tức là mỗi mỗi tờ giải thích, dung hai nghĩa nầy phân biệt thuộc thành trì của núi. Làm sao được tự tại trực thuộc 6 thành tựu mà chẳng thể nói? Luận nói rằng: hiển thị pháp thù thắng nầy tức là đề cao những chỗ thuộc kinh văn. Công đức thành tựu nghĩa là chẳng thể kết hợp phân phối rõ ràng thuộc phạm vi ngòai 6 ấy. Dùng pháp tốt đẹp nói đến việc hiển thị hai việc phía trước. Lấy đó có thể chỉ bày rộng ra và chỗ công đức rộng lớn ấy gọi là pháp. Pháp ấy gọi là rộng rãi rồi giải về”ta nghe như vầy”. Tất cả đều nói rằng chính A Nan gần gũi thân cận nghe từ Phật.
Hỏi rằng:Như Phật thành đạo sau hai mươi năm A Nan mới bắt đầu xuất gia thì làm sao các kinh đều có thể ghi là”Ta nghe như vầy”?                             
Đáp rằng: Vì Phật nói lại lần nữa . Sao biết được điều nầy? Trong kinh Bồ Tát Xứ Thai đều nói rộng phân biệt điều nầy. Trong thời gian Phật nói, kẻ chẳng nghe là A Nan, thì nói là không nghe và Phật bảo nghe nên nói. A Nan được Tam Muội nơi Phật; cho nên có thể thọ trì được vậy.
Hỏi rằng: Nếu như thế thì tại sao Đại Trí Độ nói rằng: Lúc A Nan ngồi tòa cao để nói kinh thì hướng đến nơi Đức Phật nhập Niết Bàn để nói kệ rằng: Lúc Đức Phật mới chuyển bánh xe pháp thì lúc bấy giờ ta chưa thấy, nghe triển chuyển như vậy. Xưa nơi Ba La Nại vì 5 Tỳ Kheo mà chuyển bánh xe pháp Tứ Đế?
Đáp rằng: Văn của Đại Trí Độ Luận tùy theo bộ kia ; cho nên nói như thế. Lại nữa giải thích Đức Phật tại đó lần đầu tiên vì 5 người mà nói. Sau đó lại vì A Nan mà nói lại. Nói đấy là nghe triển chuyển.
Hỏi rằng: Nếu như vậy thì Nhập Đại Thừa Luận nói rằng: A Nan giữ pháp chẳng hết . Vì trước đó 20 năm tất cả đều chẳng nghe. Lại nữa dẫn theo kinh A Hàm thì nói: Thích Đề Hòan Nhơn sai Uất Đa La nói. Tôn Giả ! ta được tha tâm nên quan sát tất cả chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề chẳng có thể hay thọ trì Phật Pháp; chỉ trừ Tôn Giả; ngòai ra chẳng ai có thể. Do nguyên nhơn duyên nầy có thể biết rằng A Nan chẳng thể lãnh hội. Lại nơi kinh Thủ Lăng Nghiêm, Phật vì Tịnh Nhựt Tạng Thiên Tử mà nói. Chỗ lãnh hội của A Nan ít, chẳng đủ để nói; chẳng gìn giữ, điều ấy có rất nhiều. Cho đến nói rộng ra lại đầy khắp cả mười phương vi trần thế giới, tất cả đều như A Nan, chẳng thể thọ trì hết, lại cũng như thế chăng?
Đáp rằng: Căn cứ nơi Đức Phật thì những gì chưa như thế , thì chưa vì đó mà nói thêm. Lại giải rằng: Thủ Lăng Nghiêm kinh căn cứ nơi chỗ sở ngộ của Phật, chưa nói pháp; cho nên nói rằng chẳng thể tổng trì. Những gì mà chưa nói như lá trong rừng. Lại nữa, nếu ở nơi nầy nói pháp thì A Nan có thể giữ gìn. Ngòai 10 phương Tịnh Độ khác thì A Nan chẳng thể nghe giữ được.
Hỏi rằng: Nếu A Nan Đà chẳng phải là Đại Bồ Tát thì chẳng thể thọ trì. Nếu Bồ Tát nầy hóa thành Thanh Văn thì sao chẳng thể thọ trì?
Đáp rằng: Tại ở nhơn vị vậy . Nơi hiển tướng thân ở tại thế giới nầy. Ngòai ra nói rằng chẳng thể trì. Ở trong thế giới nầy nếu thật, thì không thể nói gì cả. A Hàm nói chỉ trừ Tôn Giả, ngòai ra chẳng thể được. Uất Đa La lại là Thanh Văn, lìa nơi thai để nói, tất chẳng thể trì, chẳng sai biệt sao. Cho nên tạo ra thông lệ nầy. Những câu văn đã chẳng sai. Nói các lậu đã tận để giải thích. Câu Xá nói rằng: Khể Lưu hữu tình, nơi sanh tử; hoặc làm cho lưu chuyển nơi sanh tử. Từ Trời Hữu Đảnh cho đến ngục Vô Gián, do sự tương tục kia nơi sáu cửa đau đớn. Việc nầy thì vô cùng; cho nên gọi là Vô Lậu.
Thế Thân Bồ Tát thuật lại nói kinh bộ rằng: nếu giải thích tốt thì các cảnh giới lưu chú liên tục; sự sai nầy chẳng dứt; cho nên gọi là lậu. Trong Đại Thừa Tạp Tập thứ sáu nói rằng: Làm cho tâm liên tục lưu chuyển, tan ra chẳng dứt; cho nên gọi là lậu. Điều nầy lại cũng nói rằng: nương vào cửa ngòai lưu chuyển; cho nên tạo thành dục lậu. Nương vào nội môn để lưu chuyển; cho nên thành hữu lậu. Nương vào hai chỗ kia để lưu chuyển; nên gọi là vô minh lậu. Làm cho tâm liên tục lưu chuyển, tan ra chẳng dừng nghỉ, thì đây là nghĩa của lậu.
Giải rằng: nơi cảnh sai quấy, tạo nên tên lậu là cặn bã của Tiểu Thừa, mất đi cái nhu nhuyến của Đại Thừa. Khi ra khỏi lậu, theo Du Già 64 nói về vô minh lậu, chỉ chấp vào cái thấy ác rồi nương vào vô minh, làm vô minh lậu. Cho nên luận kia nói rằng: Lược do năm tướng, lập nên tà, giải thích tà, tà dục vô minh lậu. Một là hữu tưởng luận môn sanh khởi vô minh. Hai là vô tưởng luận môn sanh khởi vô minh. Ba là phi hữu tưởng phi vô tưởng luận môn sanh khởi vô minh. Bốn là do đọan kiến luận môn sanh khởi vô minh. Năm là do hiện pháp Niết Bàn luận môn sanh khởi vô minh. Đây là những câu văn để chứng minh, duy chấp vào phân biệt. Lại nữa hay chấp vào chỗ thấy để nương vào vô minh thì chẳng phải như vậy. Điều nầy chớ nương vào dục giới, ba sự tìm cầu nơi cửa để nói. Chẳng có, tuy nói, chẳng như vậy.
Bên trên lược về cảnh giới vô minh, không lậu, như sau đó sớ giải. Đại Thừa nói lý tận cùng. Du Già thứ 89 nói rằng: các cõi dục trói chặt bởi phiền não, duy trừ vô minh; nên gọi tên là dục lậu. Các cảnh sắc, vô sắc hai cõi ấy là nơi cột tất cả phiền não, trừ vô minh; nên gọi là hữu lậu. Đối với ba cõi; nơi có vô trí, tổng nhiếp làm một, lập nên vô minh lậu. Tất cả Câu Xá đều tụng rằng: dục, phiền não lại cột chặt, trừ si nên gọi là dục lậu. Hữu lậu ở bên trên hai cõi tuy phiền não trừ nghi, vô ký, cùng với nội môn định địa; cho nên hợp nhất. Vô minh các hữu là gốc; cho nên phân biệt làm một lậu; rồi trói buộc trừ hôn trầm trạo cử. Sa Bà nói: cõi kia cột chặt ít, chẳng tự tại. Cứ như phẩm lọai túc luận và kinh bộ luận tông thì thêm hai điều nầy. Tuy nhiên căn cứ vào hai tông thì ba cõi phiền não, ba lậu nhiếp hết. Trong kinh lại nói rằng: lại chẳng có phiền não. Hai là giải thích như sớ giải, chẳng phải ba lậu nhiếp phía trước; họăc chẳng hết, lại nói chẳng có dư. Có cách giải thích rằng: phía trước ba lậu nhiếp thủ, chẳng tận. Lại nói chẳng gồm phiền não. Thật là dối trá. Cuối các kết có nói: chẳng phải là chín kết, tướng ấy như Tông nói. Chín ấy tuy dục giới hiện sự trói buộc; cho nên chấp vào 5, trên dưới phân biệt kết nối. Nay nghĩa ấy chẳng phải vậy. Căn cứ vào 89 nói rằng: Nương vào 9 lọai có thể hòa hợp; cho nên kiến lập nên 9 kết. Một là nương vào phẩm tại gia, có thể thương lòai hữu tình, chẳng phải hữu tình, tất cả cảnh giới, sân tham ái cột chặt. Hai tức là nương vào chỗ tất cả ác cảnh giới sân si cột chặt. Ba là nương vào tự nơi hữu tình kiêu mạn cột chặt. Bốn, năm, sáu nương vào ác thuyết pháp, các phẩm của người xuất gia, ba lọai tà ty, thắng giải cột chặt. Nghĩa là nương vào việc nghe không phải chánh pháp. Nương vào những chỗ chẳng như lý, tà tư duy, nương vào phi phương tiện để tu. Như thế có sự sai biệt liền chia làm ba lọai. Bảy là nương vào nơi lành để thuyết pháp, luật, vô thắng giải cột chặt. Tám là nương vào phẩm xuất gia, trí bần cùng. Chín là nương vào phẩm tại gia tài bần cùng. Như thế khởi lên 9 lọai. Sau đó hai căn cứ vào nguyên nhơn. Dùng phẩm xuất gia về pháp keo kiệt để rõ biết bần cùng trí. Phẩm tại gia keo kiệt về tài sản; cho nên sẽ bần cùng về tài sản. Căn cứ vào điều nầy đa phần sanh nơi dục giới. Không chỉ nói rộng, mà trong Tạp Tục thứ 6 có nói rằng: Ái kết nghĩa là 3 cõi tham ái kết chặt; cho nên mạn kết; tức là thất mạn.Vô minh kết chặt nơi ba cõi vô trí. Trong Đại Đồng Hữu Bộ Biên Luận phần thứ nhất câu văn lại nói rõ; chẳng nói riêng về dục.
Lại nữa quyển 84 nói rằng: Đối với 5 lọai có thể hòa hợp; cho nên nói là kết. Hướng đến 5 cõi có thể sanh nơi năm cõi. Đối với trong các cõi có thể hòa hợp cho nên gọi là hướng đến cõi ấy. Lại nói các cõi chẳng giản đơn như hai cõi trên. Làm sáng tỏ qua ba cõi, ba thấy và hai thủ; mỗi mỗi kết hợp lại như Câu Xá nói: Chấp vào vật; cho nên 3 việc thấy kia có 8o vật. Hai thủ ấy lại cũng như vậy; cho nên gọi là vật. Ba lọai ấy thủ nơi một và có thể chấp giữ; nên gọi là các chấp thủ. Thủ ấy chấp thủ nên có thể thủ hữu phân biệt.
Vì trong nhân duyên ràng buộc nào mà chấp thủ tật keo kiệt chia làm hai?
Đáp rằng: Do tánh bất thiện tự do khởi lên; nên 8 sự trói buộc có thể như vậy. Trong 10 lọai cột chặt phẩn phục lại đầy đủ hai nghĩa; nên gọi là số hiện hành. Lại nữa hai ấy có thể lấy tham tiền tài là nguyên nhơn; cho nên biến hiện, cần sám tùy phiền não; cho nên não lọan cả người xuất gia và tại gia. Do vậy sớ giải rộng ra.Câu văn tận lý.
Nếu năm chấp thủ trên dưới phân kết, rộng hơn phần 84 nói rằng: Hướng về sắc, vô sắc, dục giới; gọi đây là phần dưới. Hướng đầy đủ tu đạo, thấy đạo là phần dưới. Do Ước(Giáo)hai điều nầy phần dưới sai biệt. Rộng ra điều nầy tức là ứng với 5 phần dưới của kết; rộng phân biệt hoặc. Không đầy đủ sanh ái chẳng thành, có kết. Khuyết nhuận sanh là câu văn dư, sai. Điều nầy theo Ước(Giáo)là phần nhiều. Chín kết lại cũng như vậy. Lược đưa ra chỉ 2,3. Ngòai ra câu văn giải khác có nhiều sự thiếu sót, sai quấy. Rộng ra điều nầy có thể rõ biết.
Ví dụ như trong chúng A Tu La, có người dẫn dụ kinh A Hàm nói rằng: Người ở cõi trời Quang Âm Thiên vào biển rồng, trôi trong biển rồi theo đó thành một cái trứng. Trải qua 8.000 năm thì sanh ra A Tu La nữ, thân lớn như núi Tu Di. Có ngàn đầu nhỏ trong nước; riêng chỉ một thân nữ sanh ra Tỳ Ma Chất Đa. Thân hình gấp 4 lần biển lớn; chín đầu 8 chân, ngàn tay nhỏ nhiệm. Vào trong núi thơm Càn Thát Bà nữ sanh Xá Thai. Trong kinh nầy bàn về nghĩa của ngọai đạo. Phía dưới như vậy. Cõi trời dục giới hay chẳng sạch, dơ; há Quang Âm thiên mà chỉ tòan sạch sẽ ư? Có nơi giải thích rằng: Khi thuyết pháp cho đến khi thành tựu; gọi đây là kinh điển Đại Thừa. Có nhiều ý nghĩa khác nhau từ đây trở đi, mà sự khác biệt nầy tên gọi có nhiều cách khác nhau. Theo tất cả những kinh điển Đại Thừa thì nghĩa nầy chưa thể được; chớ nên giải tổng biệt. Lý ấy có thể như vậy. Dùng kinh điển Đại Thừa gọi tất cả kinh Đại Thừa. Điều nầy quá thịnh hành, có nhiều cách gọi sai biệt từ đây trở đi. Thế mà thông tất cả Đại Thừa. Điều nầy tức chưa thể.
Lúc luận giải rồi, đưa ra thuyết rất nhiều nghĩa. Phải rõ tất cả bao nhiêu thì được? Hoặc nói rằng ngòai kinh chưa nói Pháp Hoa nầy. Điều nầy như thế có thể rõ. Mười bảy vị thường giải thích một điều là nghĩa vô lượng. Lại có luận nói rằng: Kinh nầy có 17 tên gọi. Nếu rõ tất cả thì làm thế nào để nói điều nầy? Lại tự giải thích rằng. Lúc ấy chỉ nói một bộ giáo; nhưng nghĩa thì có 3 tên gọi. Như Hoa Nghiêm lại có tên là Phương Quảng. Lại nói rằng: Ngòai ra còn có 14 tên gọi để chú thích nghĩa rộng nữa. Trong kinh có nhiều nghĩa cũng không đủ. Nhiều nghĩa cũng không ngòai tên gọi. Thường là 3 tên. Thế thì tại sao lại có đến 17 tên gọi, qua tất cả kinh điển Đại Thừa? Lại được luận rằng: Kinh Đại Thừa nầy có 17 tên gọi. Nếu tên vô lượng nghĩa thì chẳng đầy đủ. Làm thế nào để nói rằng: trong nầy có 17 tên gọi, thấy trong sáu cõi? Có nói về vua Diệm La, mà kinh Hoa Nghiêm sánh với những cõi khác. Kinh Hoa Nghiêm nói rằng: Làm cho chúng sanh lìa khỏi cõi của vua Diệm La, cái khổ gia hình. Cho nên nói rằng: làm cho chúng sanh lìa địa ngục, súc sanh, ngạ qủy và vua Diệm La nơi có bốn ác khổ. Dùng câu văn nầy để chứng minh xác lập cõi ấy. Nếu so sánh với Du Già luận phần thứ hai thì: khi kiếp sơ đã thành lập xong rồi, có một lòai hữu tình cứ tăng dần lên và do tạp nhiễm nghiệp nên sanh vào nơi lạc già, tạo thành nơi yên ổn , rồi làm vua. Lại nói về chỗ sanh kia; cho nên rõ biết và nhiếp kia. Nay thì nghĩa không phải như vậy. Nếu hứa với cõi kia để nhiếp thì nên thọ khổ của cõi kia. Nếu thọ khổ ở cõi kia thì làm sao có thể trị phạt những hữu tình ở cõi kia được?
Cho nên Duy Thức thứ 20 nói rằng: Duyên gì mà chẳng bằng lòng với ngục tốt, mà lọai nầy thật là lòai hữu tình. Chẳng đúng lý vậy. Sanh vào nơi kia thì chẳng nên nhiếp Na Lạc Già vậy. Chẳng thọ như kia về chỗ thọ khổ. Cho đến có thể tự chẳng thể nhẫn thọ được đất nóng, lửa dữ, đốt cháy khổ sở. Sao lại nói kia có thể bách hại những kẻ kia? Vì như vậy nên rõ rằng chẳng phải nhiếp cõi kia vậy. Lại nữa Hoa Nghiêm nói rằng: Cho đến vua Diệm La là kẻ ở 4 cõi ác khổ, mà vua quan thì ở riêng biệt một cõi. Căn cứ vào cõi thật của qủy thì như A Tu La khác nhau đối với Luận Du Già nói rằng: sanh vào nơi Na Lạc Già rồi yên ổn liền làm vua để phán quyết cõi kia. Lại cũng nói rằng: Sanh nơi Na Lạc Già tạo sự yên tĩnh, rồi làm vua để phán xét các lòai hữu tình thì chẳng phải vậy. Lại nơi Duy Thức thứ 20 có sự sai khác với những kinh luận về cõi qủy nầy.
Hỏi về nghĩa lớn nguyên nhơn để thành tựu thì luận giải thích có 8. Như nghe đầy đủ về thí dụ, rồi mới khai quyền hiển thật. Với Trung Luận thì nói rằng: chỉ bày hai lọai cảnh giới bí mật để làm đốn ngộ cho con người, so với tiệm ngộ chăng?
Đáp rằng: So sánh với nghĩa tuy thông, mà ý là đối với tiệm ngộ. Vì sao vậy? Căn bản là do Thanh Văn tạo nên việc nầy. Muốn làm cho nghe biết pháp khó tin. Nếu căn cứ vào đốn ngộ để chỉ bày cảnh giới bí mật thì liền làm cho chấp vào ý nghĩa của cảnh giới thanh tịnh, sao có thể nói đầy đủ hơn? Cho nên đối với Thanh Văn khiến cho xả bỏ tích quyền. Chỉ cho Thanh Văn cảnh giới bí mật, làm cho chấp vào chỗ thật nầy. Hiển thị cảnh giới bí mật của Bồ Tát. Bên trên tất cả hiển thị làm cho hoan hỷ. Chưa làm rõ, khiến cho tu lý, trí, làm cho tu chứng nơi hai quả. Hữu Đắc Trí xem lý đối với việc nghe.
Hỏi rằng: có thuyết nói về hai lọai cảnh giới bí mật. Nghĩa là thổi pháp loa, đánh pháp cổ lớn. Nghĩa nầy thì như thế nào?
Đáp rằng: Thuyết kia chẳng như lý, không đúng vậy. Luận rằng: Đại pháp cổ là hai câu thị hiện. Nếu chấp vào Pháp Loa tức là đại pháp cổ một câu hiển thị. Sao lại được nói là hai? Nếu nói rằng chấp vào pháp cổ cùng với pháp loa kia nói là hai câu thị hiện, thì chẳng bỏ đại pháp cổ, lại làm sáng tỏ nghĩa gì đây? Nếu nói luận kia là chỗ để phân biệt điều nầy với kinh kia, thì như vậy luận văn ấy tự giải thích về kinh riêng, làm sao có thể dẫn nghĩa giải thích kinh Pháp Hoa nầy? Hà huống là những kinh điển Đại Thừa vô biệt bộ giải thích? Thứ nhất Phật nói vô, hữu hai kinh, chỉ nên từ luận 8 ấy. Câu văn có thể tự ý so sánh những gì mà có thể giải thích. A Hàm 8 lọai sâu xa lại thông, giải thích về trí tuệ. Nghĩa tuy có thể như vậy; nhưng khi giải thích luận văn thì có 8 lọai sâu xa, thông thích làm hai. Sai biệt ở chỗ luận nói. Như thế câu văn có thể rõ biết.
Hỏi rằng: Luận ấy nói: sanh ra sợ hãi thì làm cho đọan lìa sợ hãi, vì lợi ích cho hai lọai người. Câu văn phía dưới lại nói rằng: 4 hối sợ hãi. Nghĩa là Đại Đức Xá Lợi Phất và ta chẳng chứng pháp Tiểu Thừa như vậy, mà tự dừng. Tức là tâm hối quá nầy; gọi đây là sợ hãi; cho nên trước nên sợ. Vì sao lại giải thích rằng: chẳng nói không sợ; nói ấy tức là sợ chăng?
Đáp rằng: có luận nói rằng: Nếu vì sự nói ấy; nghĩa là Ngài Xá Lợi Phất cùng ta chẳng chứng. Cho nên nói rằng: có sợ hãi. Lại như tâm nghi ngờ, liền có mới, cũ. Điều hối quá nầy cũng như thế. Vì muốn đọan trừ sửa đổi nguyên nhơn, hối liền nổi lên. Lại nữa trước hối để tu Tiểu. Nay vì nói phương pháp hối ấy chẳng sớm để tu Đại; cho nên giải thích, không phương hại. Nay lại có một cách giải thích; hoặc có thể sớ giải bản chánh, có ngộ nhận; nên nói là hai. Một thuyết nói có sợ. Thuyết thứ hai; tức là chẳng sợ. Như Xá Lợi Phất nói rằng: nghe nói, chưa nghe, đọan trừ hối vậy. Giải thích nầy tỉnh lược quá, chẳng thuận với kinh luận.
Lại hỏi rằng: Sự sợ hãi có 5 như là: kinh sợ, sợ hãi, lại có sự báng bổ, làm cho thối thác, tổn hại và điên đảo. Vì sao lại bỏ chỗ để lui?
Đáp rằng: Nghe nói rằng: chẳng bổ báng; cho nên ngồi yên. Tăng thượng khởi lên hủy báng; cho nên thối lui chỗ ngồi.
Hỏi rằng: Kẻ tổn họai phỉ báng nghe để phỉ báng; cho nên chẳng thóai lui. Vì sao luận nói rằng: có Thanh Văn chấp giữ, dùng sự thật bổ báng không Đại Thừa chăng?
Đáp rằng: Nghĩa là Thanh Văn chấp thật, kẻ hủy báng không Đại Thừa. Căn cứ xưa kia kẻ phàm phu nghe Tiểu Thừa giáo, chấp vào đó lấy làm cứu cánh. Nghĩa là chẳng có Đại Thừa. Chưa hề nghe nói đến Đại Thừa. Khởi lên sự hủy báng; điều nầy làm tổn hại hoặc phỉ báng. Theo chỗ nương vào Tiểu Thừa cho là cứu cánh. Chấp cứu cánh của ngã như là Niết Bàn. Nay nghe Đại Thừa liền tin, chẳng phỉ báng. Thường cân nhắc, chẳng phân biệt, chẳng thể tiến tu. Liền nghe chỉ có một. Tức là chẳng phải có Thanh Văn được diệt, ngược đạo. Nghi về sanh; cho nên gọi là tổn họai. Cho nên câu văn phía dưới nói rằng: Nếu ta và Đệ Tử thật được A La Hán, Bích Chi Phật, mà chẳng tin kinh nầy, thì chẳng có căn cứ.
Hỏi rằng:Như vậy thì chẳng nói định tánh Nhị Thừa làm chỗ ngồi hiện tại sao?
Đáp rằng: Quả vị Bích Chi Phật thì việc nầy không định. Kinh hay nói việc cầu Duyên Giác. Định Tánh của Thanh Văn tuy chẳng thật có, lại cũng chẳng phải phòng hộ. Làm cho trở thành chẳng phải pháp ngu. Lại nữa giả sử việc nghe ấy có tin; tức chẳng hồi tâm. Lại thêm tổn hại, sợ hãi, chẳng phải lại cũng sai lầm sao?
Hỏi rằng: Khó nói về hai cõi thú như dê , nai, khó ra khỏi chỗ ở. Còn cõi của Thái Tử đối với trâu kia lại cũng nên ra khỏi chỗ ở?
Đáp rằng: Nhị Thừa hoặc Bồ Tát, dê, nai, gọi là ra khỏi nhà. Ở vào kiếp sơ hoặc du hành; chẳng được gọi là ra khỏi nhà.
Hỏi rằng: Địa tiền Bồ Tát hoặc tại khổ chẳng được gọi là ra khỏi nhà. Từ Sơ Địa trở lên hoặc tại khổ lại cũng nên chẳng ra khỏi nhà sao?
Đáp rằng: Phân biệt có hai chướng. Rời khỏi sơ địa được lìa phân đọan; gọi đây là ra khỏi nhà.
Hỏi rằng: như vậy thì sơ địa thọ việc khó khăn để lìa phân đọan; nên gọi là ra khỏi nhà. Ngựơc lại với dễ dãi ở bát địa thọ tiền thì bảy ấy chưa lìa, không thể ra khỏi nhà chăng?
Đáp rằng: Trước bảy(địa)có thể lìa phân đọan. Tuy chẳng phải là không đễ dàng để gọi là ra khỏi nhà.
Hỏi rằng: Nếu như vậy thì ba quả có thể lìa phân đọan chăng? Mà ba quả đầu con người gọi là ra khỏi nhà?
Đáp rằng: Lực của sơ địa Bồ Tát có thể do bi tâm mà chẳng thọ xưng ra khỏi nhà. Trước ba quả người lìa, chẳng định, không phải là điều nầy vậy; cho nên giữ lại, chẳng ra khỏi nhà.
Hỏi rằng: Nếu như ba quả trước chưa thể hồi hướng đến Đại; chẳng thọ, khó khăn, chẳng ra khỏi nhà. Chẳng định hồi tâm, thọ nhận khó khăn, có thể lìa đọan phần; nên gọi là ra khỏi nhà chăng?
Đáp rằng: căn cứ vào kẻ hồi tâm, liền thọ nhân sự khó khăn, được gọi là ra khỏi nhà.
Hỏi rằng: Nếu như vậy thì ba quả đầu con người há được gọi là ra khỏi ba cõi khổ, đầy đủ ba minh và lục thông sao? Phần thứ hai ở dưới nói rằng: Nếu tâm quyết định đầy đủ ba minh và lục thông thì có được Duyên Giác, chẳng thóai tâm Bồ Tát. Trường Hàng lại cũng nói: Thấy các chúng sanh, từ nơi Phật dạy ra khỏi 3 cõi khổ chăng?
Đáp rằng: Những câu văn như vậy căn cứ nơi thuyết quyết định. Hữu học hồi tâm và thọ nhận khó khăn đều bất định; cho nên chẳng chướng; gọi là ra khỏi. Nếu như chẳng phải như vậy thì nên chẳng bỏ xe. Nếu chưa bỏ xe được thì ghi lại cái gì ? Nếu nói rằng: ở trong nhà lại được xe; được nhớ lại, được xe; tức là nên có học cách lên xe để ra khỏi nhà. Nếu như vậy thì khiến cho hữu học hơn vô học. Vì ở trong nhà được xe rồi. Nếu nói rằng: Hữu học chưa gọi là được xe; cho nên nói vô học. Nói những gì mà vô học được ghi lại; tức gọi là cùng xe với xe. Hữu học được thọ ký, chẳng gọi là cùng xe với xe. Nếu nói rằng: cảm nhận cái khổ; cho nên chẳng cùng xe với xe. Trước đệ thất địa lại cũng nên nghĩ như vậy.
Hỏi rằng: Trong Thích Già có so sánh với luận và nói rằng: Kẻ không phải Nhị Thừa thì không Nhị Thừa Niết Bàn. Vì vậy cho nên không Niết Bàn. Vì Hành Quả lại cũng chẳng phi hữu chăng?
Đáp rằng: Có nơi nói rằng có thể chứng trí và có nơi chứng lý. Tức là không có hai Niết Bàn. Sáng tỏ lại cũng không hai trí. Nhị trí đã không; cho nên hai hành cũng không. Hành nhơn chỉ chỗ khởi, lại chẳng có lời dạy riêng biệt; cho nên nói cả hai là vậy. Nghĩa như thật tức chẳng phải như thế. Thường chẳng phải hai lý. Chỉ một chơn như. Duy chỉ có Đại Niết Bàn vậy. Những câu văn trên dưới thường nói về pháp thân thì chẳng có sai biệt. Lại nói những gì về pháp thể, thì chỉ có thể của một thừa. Nhứt thừa thể nghĩa là chư Phật Như Lai bình đẳng pháp thân. Thanh Văn Bích Chi Phật chẳng như thể bình đẳng pháp thân như kia. Do nhân quả, hành quán không giống nhau. Cho nên nói là do nhân qủa hành quán chẳng giống, minh trí hạnh cũng sai biệt.
Lại nữa như trước đã nói rằng 3 thừa pháp kia thường có tên gọi là chương đầu, câu văn nói chẳng phải nghĩa thật. Vì thật nghĩa kia, chẳng thể nói vậy. Lại nữa lý vô vi, thể một ấy, không phân biệt trí hành cùng với sự thật sai biệt ở một phương tiện khác.
Hỏi rằng: Đã nói về thật, chứng A La Hán thì chẳng tin pháp nầy, không tồn tại ở nơi nầy. Sao lại được có sự tổn hại việc lo lắng?
Đáp rằng: Nay nói thật được là căn cứ vào kẻ hồi tâm. Do vậy phần thứ hai nói rằng: Chúng ta ngày nay mới thật là Phật Tử. Lại cũng nói là chơn A La Hán. Kẻ sáng suốt chưa hồi thì chưa phải là Phật Tử, chưa phải là A La Hán. Bất định là như vậy. Định tánh lại cũng như thế. Cho nên nói là chính mình; nghĩa là chẳng phải chơn thật hai Thánh. Nếu như thế thì được gọi là tăng thượng mạn, được thế gian định; nghĩa là được vô lậu; gọi là tăng thượng mạn. Hay được giải thóat nhỏ và chưa được giải thóat lớn. Lại nữa chưa được pháp thân, mà tự cho rằng cùng với Như Lai đồng ngồi nơi tòa giải thóat. Tuy không còn phiền não là sở tri chướng. Do không chướng kia; nên được gọi tên là mạn. Nếu chẳng phải như vậy thì lúc đầu chưa tin, sau đó mới tin; nên mỗi mỗi không có chỗ nầy. Tăng thượng mạn lại cũng như thế, trừ Phật diệt độ rồi, sau đó liền hóa mới được. Tuy tạo ra sự giải thích nầy; nhưng chẳng giống như sự giải thích trước. Phía trước giảm sự lo sợ, giả sử chẳng hồi tâm, nghe lại chẳng phỉ báng, thuận với câu văn nầy.
Hỏi rằng: Kinh nào nói rằng: Ta biết chúng sanh nầy chưa hề tu căn lành. Kinh nầy chính là làm thóai tâm người tu giải thóat. Trước nói rằng: nay ở trong chúng hội nầy như ta cùng với trăm ngàn vạn ức đời đời đã từng từ Phật nhận lãnh sự hóa độ. Quyển thứ hai lại nói rằng: Ta ở nơi hai vạn ức Phật, mà chứng vô thượng đạo; cho nên thường giáo hóa các ngươi chăng?
Đáp rằng: Có hai cách giải. Một nói là chớ căn cứ chỗ chẳng thối; nên căn cứ nơi người nhỏ; nghĩa là chưa tu thiện. Một cách khác nói rằng: giả sử gặp tu lớn. Chẳng phải tăng thượng phẩm thì chưa thành định vị; nghĩa là chưa tu căn lành. Chẳng tòan diện, chẳng tu.
Hỏi rằng: Vì căn cứ vào đời nầy để nói nhiều đời chăng?
Đáp rằng: Nói về nhiều đời, nhiều đời ấy là chỗ hóa độ, há được nói rằng ta gặp để nói. Giả sử ngòai Phật giáo hóa ra, lại cũng nói là vì ta. Chẳng phải chỉ đời nầy. Nghe ấy tức là chứng được Thánh; nơi quả nhỏ. Cực tật sanh ra ba. Giống như Thu Tử trải qua 60 kiếp, há chỉ có đời nầy mới giáo hóa nơi việc nhỏ. Nếu như vậy thì tại sao ở quyển thứ hai nói rằng: đầu tiên nghe Phật pháp, gặp đó liền tin thọ?
Đáp rằng: ban đầu nghe, lại rõ được ngôn ngữ chăng? Chưa thể định cho bây giờ.
Hỏi rằng: Nếu như vậy thì vì sao nói rằng: ta vốn dính mắc tà kiến vì các Thầy Phạm Chí, Đức Thế Tôn rõ biết tâm ta, phá bỏ tà ấy, nói Niết Bàn?
Đáp rằng: Vả lại căn cứ vào đời nầy, chẳng phải chỉ nghe mà ngộ liền chỗ nhỏ. Lại giải thích điều nầy căn cứ vào chỗ hóa hiện, thật thì chẳng phải như vậy. Ta dùng mắt của Phật. Phật có ngũ nhãn; nên nói là Phật nhãn quan. Ở đây ngũ nhãn ấy phân biệt nói về ngũ môn. Một la thể; hai là giải thích tên; ba là được người; bốn là phế lập và năm là tương nhiếp. Phần thứ nhất xuất thể nghĩa là căn cứ vào nhục(nhãn)và thiên nhãn các tông nói khác, rộng ra để bàn, dư nhiều chẳng thuật lại đủ. Thường nương vào Đại Thừa, tự chính tông mình để nói. Có dùng chủng tử nhãn thức; nên gọi là nhãn. Cho nên phần 20 của Duy Thức nói rằng: Thức từ chính hạt giống sanh; giống như tướng của cảnh mà chuyển đổi thành nội ngọai xứ vậy. Phật nói kia chia ra làm 10. Có dùng chủng sắc; nên gọi là nhãn căn. Quán xem nơi duyên và Duyên Luận nói rằng: Thức bên trên sắc công năng; gọi đây là ngũ căn. Với lý công năng cùng với cảnh sắc từ vô thỉ nương tựa nhau để làm duyên. Có thuyết nói rằng: hay do cảm nhãn căn nghiệp chủng; nên gọi là nhãn căn. Thành Duy Thức Luận nói rằng: Có Bích(Chi Phật)như trước đã nói, quá khó rõ biết, phụ vào đó chấp kia lại chuyển. Nên lại nói: Trong thức, chứa hạt giống nghiệp; gọi đây là ngũ sắc căn. Như trên ba cách nói ấy đều chẳng phải đúng nghĩa. Đối với pháp thì Ngũ Uẩn Du Già nói rằng: nhục nhãn thể tánh lấy 4 đại chủng để tạo ra tịnh sắc mà làm nhãn căn. Đối với trong nầy có ba cách nói. Một là chủng tử, hai là hiện hành và ba là cả hai. Thuyết nầy mới đúng. Cho nên Ngũ Uẩn Luận nói rằng: Nhãn căn vì sao có nghĩa là tứ đại; chỗ tạo ra căn thức để nương vào. Dùng sắc để làm cảnh; cho nên thông qua đó hạt giống hiện ra. Thiên nhãn căn thể ấy dùng định để khởi lên tứ đại; chỗ tạo ra tịnh sắc làm tánh. Đây chính là thông với quả vậy. Cho nên Vô Trước Bồ Tát nói trong Bát Nhã luận rằng: Vì sắc nhiếp vậy. Sắc nhiếp lại có hai. Nghĩa là pháp quả tu quả. Pháp quả tức là nhục(nhãn). Tu quả tức là Thiên(nhãn). Pháp tức là tên gọi chung tất cả vậy. Tức có thể cảm nói nghiệp; nhục ấy là quả nầy. Tuy rõ biết tổng gọi riêng là nhục, như nói ở sắc xứ. Tu ấy nghĩa là định nhơn nầy; tu chỗ khởi lên; nên gọi là tu quả. Huệ pháp hai mắt đầy đủ huệ làm tánh. Duyên với chơn và tục hai cảnh riêng biệt. Cho nên Vô Trước Bồ Tát trong Bát Nhã nói rằng: Đệ nhứt nghĩa đế vào đời để nhiếp đế. Lại cũng có nghĩa là đệ nhứt nghĩa trí lực. Thế trí ấy không bị điên đảo chuyển. Đây là một huệ ước, giữ cảnh dụng phần. Phật nhãn tức là lấy 4 nhãn trứơc làm tánh.
Trí Độ Luận nói rằng: Giống như 4 con sông chảy ra biển. Tất cả đều gọi là thiên trì (ao trời). Bốn nhãn trứơc ở nơi thân Phật thì gọi là Phật nhãn. Nếu căn cứ vào Vô Trước Bồ Tát Bát Nhã Luận đã nói thì sau Phật trí mới gọi là Phật nhãn. Luận rằng: Tất cả những chủng tử tất cả nên rõ nhiếp. Lại nói rằng: Tất cả nên rõ trong trí tất cả hạt giống công dụng trí, gọi là Phật nhãn. Trong Đại Trí Độ Luận nói rằng: Căn cứ vào tổng thể xuất thể. Trong Bát Nhã Luận nói mỗi cá biệt xuất thể. Lại cũng trong Bát Nhã luận rằng: 4 trứơc căn cứ vào nguyên nhơn Phật nhãn để ứơc quả, chẳng phải như vậy. Phật quả há có nghiệp cảm dị thục nhãn căn. Lại nữa Phật hậu trí há do bổn trí, chẳng thể đảo chuyển. Hãy rõ biết nhiệm vận vậy. Hoặc cũng trong Đại Trí Độ Luận nói rằng: Tất cả đều gọi là Phật nhãn. Dùng trí mạnh; cho nên tổng nói là trí. Nếu như vậy thì vì sao nói rằng: trong tất cả chủng ứng trí, tất cả chủng vô công dụng trí. Căn cứ vào điều nầy tức là Biến Thủ Hậu Trí làm Phật nhãn. Cho nên trứơc giải rõ.
Hai cách giải thích về tên. Một là tổng; hai là biệt. Tổng ấy gọi là nhãn. Tiếng Phạn gọi là Bạt Già Phạt Sô. Bạt Già ở đây nói là 5. Phạt Sô có nghĩa là hành tận. Nghĩa là như đi chợ đủ lọai vật thấy hết rồi; cho nên nói là hành tận. Nương vào đó để dịch nghĩa là nhãn. Chẳng phải dịch đúng. Tiếng Phạn gọi là Nhãn. Nghĩa là mắt chiếu sáng. Có 5 điều giải thích. Mỗi cách giải thích khác nhau. Nhục(nhãn) nghĩa là dị thục sắc. Nhục ấy tức là nhãn. Riêng nghiệp lấy làm tên. Ánh sáng tự tại thanh khiết,thần dung nên gọi là Thiên. Thiên ấy gọi là thông với dục, sắc, vô sắc; ý nói là sắc thiên. Mắt của Trời; cho nên nương vào người để làm nguyên nhơn. Hoặc là Định Quả Quang Khiết; nên gọi là Thiên. Thiên ấy tức là mắt giữ lại từ nghiệp. Việc giải thích nầy quá viển vông.
Lại nữa Đại Trí Độ Luận nói có giống và khác nhau. Nói rằng: Thiên thì có thiên nhãn; cho nên chẳng phải ấy tức là nhãn. Chiếu soi gọi là huệ. Huệ ấy tức là nhãn. Lại cũng có sự giải thích của Trì Nghiệp. Pháp ấy tức là cảnh. Duyên nơi pháp của nhãn. Gọi đây là pháp nhãn. Căn cứ vào huệ cùng với duyên thông; gọi đây là pháp. Ngòai ra mỗi mỗi biệt duyên. Đây có thể là thông duyên. Lại duyên nơi giáo pháp. Ở đây riêng biệt; nên gọi là pháp nhãn. Phật gọi là như thường. Mắt Phật gọi là Phật nhãn. Nương vào đấy sinh ra sự giải thích.
Ba là được làm người. Dục,sắc ở trong hai cõi hữu tình. Nếu là thiên nhãn nầy thì dục giới có sáu cõi trời cùng với ba châu, trừ Bắc Câu Lô được 4 tĩnh lự căn bản định, có thể khởi thiên nhãn. Dùng đó để được thông. Nhị thừa có huệ nhãn, chiếu sanh không lý. Tuy cũng được pháp nhãn; nhưng lấy sự yếu đuối; cho nên chẳng nói kia thành. Bồ Tát có pháp nhãn, dung hữu chủng trí, hay duyên vào tất cả. Phật có Phật nhãn, cùng hiển có thể rõ biết. Lại nữa thành hậu hậu, tất nhiên có tiền tiền. Thắng được cả chỗ yếu kém. Sự yếu kém chẳng thành hậu được. Thành tiền tiền, chẳng thể định, có thể thành nơi hậu hậu. Đại Trí Độ Luận nói rằng: Trời có Thiên nhãn. Nhị Thừa có Huệ nhãn. Bồ Tát có Pháp nhãn.
Hỏi rằng: nếu Phật có pháp nhãn thì tức nhiên có Phật nhãn. Bồ Tát có Pháp nhãn; nên có tên là Bồ Tát nhãn chăng?
Đáp rằng: Phật nhãn chỉ có Phật có. Do Phật lập thành tên. Pháp ấy chẳng do Bồ Tát. Từ cảnh(giới)nên gọi là Pháp nhãn. Ngòai ra y cứ vào trí.
Hỏi rằng: Pháp ấy chẳng do Bồ Tát, chẳng gọi là Bồ Tát nhãn. Thiên nhãn chẳng do Thiên thì vì sao có tên là thiên nhãn? Lại nữa Thiên nhãn chẳng do Thiên mà được gọi là Thiên nhãn, thì nhục nhãn chẳng do người, thì được nhơn nhãn sao?
Đáp rằng: Nhục(nhãn)thông với các cõi báo; chẳng gọi chỉ nhơn nhãn. Thiên chỉ riêng với pháp kia; cho nên gọi là thiên nhãn.
Hỏi rằng: Pháp thông nơi Phật, lại chẳng gọi là Bồ Tát nhãn. Thiên thông với các chúng, thành gì mà riêng gọi là Thiên nhãn?
Đáp rằng: Phật cùng với thiên xứ thông; cho nên gọi là thiên nhãn. Người chỉ khởi lên sau trời,thuộc thiên nên gọi là thiên nhãn. Lại nữa tên gọi ấy giả lập làm gì giả khổ để cầu. Giả sử tạo ra nhiều thông, rốt cuộc trở lại có nạn. Vả lại mỗi mỗi căn cứ vào nghĩa để lập nên tên gọi nầy.
Hỏi rằng: Bốn phế lập ấy vì sao lại lập nên ngũ nhãn mà chẳng tăng, chẳng giảm vậy?
Đáp rằng: Tất cả các pháp lược nói có hai lọai. Một là sắc pháp . Hai là chẳng phải sắc pháp. Ở trong sắc pháp có 2 lọai nầy. Một là hiển hiện cận sắc. Hai là ẩn tàng viễn sắc. Rõ hiển cận sắc cho nên lập thành nhục nhãn. Rõ ẩn tàng viễn sắc cho nên lập thành thiên nhãn. Hoặc trong sắc căn, định tán nghiệp riêng biệt. Tán nghiệp quả nhãn thành lập, vì nhục nhãn. Định sở khởi nhãn thành lập, vì thiên nhãn. Yếu mạnh chẳng giống nhau; cho nên chia làm hai lọai. Do vậy Vô Trước luận nói rằng: Vị pháp quả, tu quả nầy vì ngũ nhãn. Trần cảnh giới; cho nên sơ sắc nhiếp. Trong phi sắc pháp có lý sự cảnh. Vì liễu lý cảnh lập nên huệ nhãn. Vì liễu sự cảnh lập nên pháp nhãn nầy. Lại nữa duy chỉ một trí căn bản đặc thù; cho nên lập thành hai. Do vậy Vô Trước Luận Đệ Nhất Nghĩa Đế, nhiếp thế đế nhiếp. Lại lấy quả đối nhơn để tổng lập nên Phật nhãn. Cho nên trong Trí Luận ở phía trước tứ nhãn cho đến Phật quả, tổng gọi là Phật nhãn. Hoặc căn cứ được ở người chia thành 5 lọai.
Hỏi rằng: Suy nghĩ so sánh có thể được. Phế lập như vậy thì lần lượt như thế nào?
Đáp rằng: dùng điều yếu, mạnh để dẫn đến việc lần lượt sanh. Đối với trong sắc, nhục nhãn là yếu nhất. Chỉ thấy(sắc)hiển lộ . Thiên nhãn thì mạnh hơn. Thấy qua ẩn hiện; cho nên nói sau về nhục(nhãn). Đối với ở trong phi sắc, do rõ chơn đế, tục trí, chẳng theo lệ. Lại nữa liễu tục do chứng chơn; cho nên nói là được huệ sanh pháp hậu. Trước nhơn sau quả; cho nên kế tiếp là Phật nhãn. Do vậy Vô Trước Luận nói rằng. Đây chính là ngũ nhãn. Trần cảnh giới; cho nên là sơ sắc. Căn cứ vầo đệ nhất nghĩa trí lực; cho nên thế trí chẳng điên đảo chuyển. Từ đó đệ nhứt nghĩa nhiếp ở phía trước. Năm ấy tương nhiếp với nhau. Căn cứ vào luận Du Già nói: Nhãn ấy có 3. Trong kinh Hoa Nghiêm thì nhãn ấy có 10; do cách gọi mà tương nhiếp. Tất cả đều như việc sớ giải. Nếu Du Già thứ 3 lập 1 cho đến 11, cùng với điều nầy tương nhiếp. Lo ngại rộng hơn chẳng thuật lại, kẻ muốn làm rộng hơn thì nên tìm câu văn kia.
Hỏi rằng : Kinh nói Bồ Tát nghe pháp nầy sự nghi ngờ tất cả được giải trừ. 1.200 vị La Hán tất cả đều sẽ làm Phật. Bồ Tát trong hai nghi ấy nay trừ được gì?
Đáp rằng: Cả hai đều trừ . Kia tự rõ được làm Phật, lại chẳng nghi kia chẳng được làm Phật.
Hỏi rằng: Sao mà rõ được?
Đáp rằng: Theo luận thích dụ thì phần thứ ba vì phá một hướng cầu Đại Thừa, chấp không có Nhị Thừa. Cho nên nói hai thí dụ.
Hỏi rằng: Bồ Tát nghi đã trừ, rõ biết được làm Phật, sao lại không được thọ ký?
Đáp rằng: Thanh Văn từ lâu học tập Tiểu(Thừa). Tuy tin rằng tự mình có thể thành Phật, lo ngại chưa được quyết định. Tâm làm cho được quyết định; cho nên cùng thọ ký riêng biệt. Bồ Tát trước chẳng học Tiểu(Thừa). Tuy lo kia thối (tâm)khi nghe nói nhứt thừa, rõ biết không phân biệt Tiểu; tức trụ ở Đại(Thừa)quyết định; cho nên giả thọ ký. Lại nữa cũng cùng thọ ký riêng.
Hỏi rằng: Trước nói chẳng phải nhứt(thừa)chẳng thành Phật; tức là tổng cùng thọ ký. Vì sao lại chẳng thọ ký riêng?
Đáp rằng: Vì nói lược cho nên khi nghe thì khác.
Hỏi rằng: Như vậy nói 1.200 vị A La Hán tất cả đều được làm Phật. Vì tự rõ sẽ được làm Phật, mà Phật chẳng rõ chăng? Nếu tự rõ biết rằng 1.200 người giống như Thu Tử một thuở được thọ ký, vì sao nói hóa thành rồi, mới sanh giải tâm ban đầu cùng với việc thọ ký?
Đáp rằng: Có hai cách giải thích. Một là nói rõ được, mà chưa hướng đến. Cho nên vui với Nhỏ. Nghe nói hóa thành mới hiểu biết và bỏ Tiểu(Thừa). Bắt đầu cũng được thọ ký. Hai là nói chưa rõ, mà khi nghe Phật nói kia sẽ làm Phật. Nghe đến lần thứ ba mới bắt đầu lãnh ngộ.
Hỏi rằng: Vì sao Bồ Tát nghe, nghi liền trừ, rõ biết sẽ làm Phật, còn 1.200 người tự chưa rõ biết được khi Phật nói?
Đáp rằng: Vì lợi(căn)và độn(căn)khác nhau vậy. Thu Tử lợi căn, một lần nghe thường phải giải nghi. Bồ Tát thì hơn hẳn; cho nên nghi ấy liền trừ. 1.200 vị ấy độn căn; cho nên chưa thể giải nghi được.
Hỏi rằng: So sánh phẩm Phân Biệt Công Đức nói rằng: Nếu nghe được phẩm Thọ Lượng, công đức vô thượng mà thóai tâm Bồ Đề thì chẳng có nơi nầy. Xá Lợi Phất ở trong quá khứ đã từng nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, như gặp Đại Thông vậy. Vì sao lại thối lui?
Đáp rằng: Có hai cách giải thích. Một là nói cứu cánh thối lui, rốt cuộc không có ở nơi nầy. Giả sử có thóai thì cũng hòan lại như cũ. Hai là căn cứ vào kẻ ưu việt; hoặc căn cứ người lãnh ngộ nói chẳng phải tịnh, phần thứ ba hiển dương nói rằng: Một là giới tịnh, thiện trụ thi la(giới); cho đến các tội nhỏ, vừa mà thấy lớn, sợ sệt, thọ học, học xứ. Hai là tâm tịnh. Nương vào giới tịnh cho nên trụ ở 4 tĩnh lự(thiền định). Ba là thấy tịnh. Nương vào tâm thanh tịnh; cho nên được lậu tận trí. Hiện quán các chân lý. Bốn là độ nghi tịnh; nương vào chỗ thấy tịnh; cho nên đối với Phật, Pháp, Tăng chẳng hoặc, chẳng nghi. Năm là đạo phi đạo tri kiến tịnh. Nương vào đạo nghi tịnh; cho nên được diệu tri kiến. Rõ Phật chỗ nói đạo hay ra khỏi ngọai đạo để nói, chẳng thể hết khổ. Sáu là hành tri kiến tịnh. Nương vào đạo phi đạo tri kiến tịnh lại được tịnh; cho nên tri kiến tri. Ra khỏi đường ấy có thượng, trung và hạ. Nghĩa là qua lòng từ bi là chỗ nhiếp vậy. Bảy là hành đọan tri kiến tịnh. Nương vào hành tri kiến tịnh; cho nên được diệu trí. Nghĩa là ta sẽ đọan những hành vi hạ, trong cùng với việc phát khởi thiện diệu thánh hạnh. Tám là Vô Dư Tịch Tĩnh Tịnh. Nương vào hành đọan, tri kiến tịnh, chứng đắc vô dư, các lậu vĩnh viễn dứt trừ. Chín là quốc độ tịnh; nghĩa là chư Phật cùng với những công đức vô thượng, có thể thị hiện bất khả tư nghì công đức trang nghiêm ở nhiều quốc độ, làm cho Phật quốc thật cực tịnh, cũng như cực tịnh chư vị Bồ Tát và những quyến thuộc.
Hỏi rằng: Nhà lửa ví dụ Xá Lợi Phất vì thỉnh 1.200 vị, tất cả đều là những vị vô học. Vì sao luận thích nói rằng: Vì hữu học đầy dẫy tánh phiền não của chúng sanh?
Đáp rằng: Có hai cách giải thích. Một là nói theo Đàm Bổn thì nói Quyền Bổn là phàm phu. Nay lấy dụ để hiển; cho nên nói là dẫy đầy tánh phiền não. Như vậy tức là Đàm chứa ý; nên chẳng sai biệt. Hai nói rằng: Căn cứ vào việc Thanh Văn thỉnh. Chính vì Vô Học là bên cạnh của Hữu Học. Căn cứ bên cạnh ấy cho nên nói là phàm phu. Vô Học văn hiển, luận ấy lược chẳng giải thích, chẳng phải vậy. Kinh nầy làm tông sáng tỏ cho Nhứt Thừa. Như trong Phẩm Dược Thảo nói những gì làm cho rõ biết thừa khác. Nói đủ các thừa. Ước(Giáo)có học Thanh Văn làm cho trở thành Đại(Thừa). Văn hiển có thể rõ; cho nên lược bớt chẳng dẫn giải.
Hỏi rằng: Xe Dê, xe Hươu để chỉ cho chấp giữ pháp gì?
Đáp rằng: Căn cứ vào các nhà chú giải thì chấp vào Nhị Thừa Vô Học, sau khi giải thóat con đường của thế gian, tâm định hư chỉ. Đây là xe của chủng trí. Dẫn dụ các con làm cho ra khỏi tâm địa thế gian. Thật chẳng thể rõ tất cả các pháp. Cho nên ra khỏi cửa không được. Có thể chốc lát tu nghĩa, ngôn, không xe. Cho nên luận nói rằng: Người thứ nhất cùng với thế gian trồng đủ các lọai căn lành, tam muội công đức, khiến cho du hí(không thật). Rồi sau đó khiến cho vào Đại Bát Niết Bàn.
Hỏi rằng: Nếu như vậy thì nói những gì là thấp, hợp với dụ để nói về xe? Đây là ba thừa, dùng vô lậu,căn lực, giác đạo, thiền định để mà tự vui vẻ ?
Đáp rằng: Kia đều lên xe nầy trang nghiêm đầy đủ. Lại trong thân vô lậu làm chủ các pháp. Lại cũng có tên là vô lậu.
Hỏi rằng: Nếu như vậy thì xe trâu lại cũng như thế chăng?
Đáp rằng: Cứu cánh kia là thật đức, mà điều hư nầy chỉ cho chẳng phải cứu cánh.
Hỏi rằng: Nếu như vậy thì hữu lậu há gọi là ra khỏi nhà?
Đáp rằng: Ra khỏi từng phần; cho nên gọi là ra khỏi nhà. Lại nữa cách giải thích ấy chỉ cho Vô Học quả vị, chỗ đắc vô lậu, sanh trí tuệ là vì xe dê(xe)hươu. Ở phía dưới nói tự tại không lo, không chỗ nương cầu, không lậu căn v.v…
Hỏi rằng: Nếu như vậy thì xe ra khỏi cửa như thế nào để được trí ?
Đáp rằng: Dùng trí nầy giả và gọi đây chủng trí, sẽ có thể tu học; nên gọi đây là xe tốt. Sơ địa trở lên, được chủng trí xa; cho nên chẳng đủ tốt. Nếu dùng sự tu học gọi là xe tốt thì Thập Địa tất cả đều tu, hằng thường tốt đẹp.
Nếu như vậy tức là Bồ Tát chẳng thể chẳng lên xe, sao được nói là lên xe để du hí? Lại nữa luận nói rằng: trước đó làm cho nhập vào bất thối địa, hiện ra cùng với vô lượng trí nghiệp. Sơ Địa trở lên tức là đắc trí nghiệp. Tuy rõ biết tu học, kinh chẳng nói tốt, nói du hí. Nhị Thừa ra khỏi nhà, chưa được chủng trí. Chưa đến sơ địa, có thể cũng tu học nghĩa, gọi là xe tốt. Lại luận rằng : người thứ nhất nầy cùng với thế gian trồng nhiều căn lành tam muội công đức, làm cho du hí nầy. Sau đó làm cho vào thành Đại Niết Bàn, cùng với trời người thế thiện. Chưa được điều chơn nầy, có thể đầy đủ lời nói tốt. Bồ Tát chẳng để chỉ cho Dê,Hươu. Sơ Địa trở lên được chơn. Cho nên Bồ Tát chẳng tốt. Hoặc có thuyết nói rằng: Sơ cơ hư vọng; cho nên xe phải tốt. Hoặc nói rằng trong nhà nghe ba; ngòai cửa thấy một. Chẳng rõ ai, rõ một. Cho nên đều tốt đẹp cả là chẳng phải nói thật.
Hỏi rằng: Nếu Bồ Tát chẳng phải được xe tốt, gọi là ra khỏi nhà thì có ngồi chăng?
Đáp rằng: Gọi là ra khỏi nhà rồi ngồi. Thường là Ước(Giáo) Nhị Thừa cứu cánh vậy. Lìa chướng tận, tâm dừng lại, kiến lập quả vị. Các vị Bồ Tát học chưa cứu cánh, chưa lìa chướng tận, chẳng kiến lập quả được. Tâm chẳng dừng, chẳng được nói là trống trải trên đất. Duy phân biệt mà gọi là trên mặt đất. Người trước 3 quả cũng lại nên như vậy. Nếu như vậy thì hữu học lại gọi là ra khỏi chỗ ngồi.
Vì sao ở dưới hợp dụ với ở giữa nói là Phật dạy rằng ra khỏi cửa tam giới khổ, sợ hãi, hiểm đạo, được Niết Bàn vui? Lại gỉai thích rằng: Bồ Tát lại cũng được kêu ngồi. Tuy chưa dừng và chưa tạo ra quả, mà dùng trí để an xứ, lại được gọi là ngồi. Có thể hàng phục nghi hoặc; cho nên xuất phần đọan và gọi là ra khỏi ba cõi. Trên đất không hại?
Nếu mà ba quả lại cũng như đã hứa thì cũng chẳng mất đi. Giữ, bỏ nhiệm ý.
Hỏi rằng: Bên ngòai ba cửa, thể của xe nầy có nhiều chỗ chẳng giống nhau chăng?
Đáp rằng: Theo lối giải thích xưa thì đó là Niết Bàn. Nay nói rằng: sau đó được chánh trí. Chấp giữ Niết Bàn mà vì hình tướng của xe. Kinh luận,giải rõ câu văn nầy. Các kinh nói rằng: Muốn mau ra khỏi ba cõi, tự cầu Niết Bàn. Như những đứa con kia vì cầu xe Dê để ra khỏi nơi nhà lửa.
 Hỏi rằng: Luận nói rằng: Sau đó thì vào Niết Bàn; cho nên thủ hậu trí mà vì ba xe kia. Lại nữa câu văn căn cứ vào đâu?
Đáp rằng: Lại trải qua kinh luận để làm rõ câu văn. Nói Dê,Hươu là vì hậu trí. Luận nói rằng con người là đệ nhất, dùng thế gian nầy để trồng những căn lành, tam muội công đức, phương tiện, làm cho vui vẻ, khiến cho vào Niết Bàn. Lại nói trồng các căn lành, tam muội công đức. Rõ ràngchẳng phải Niết Bàn. Cùng với xe Trâu nói cầu tất cả trí Phật, trí tự nhiên, trí vô sư, trí Như Lai để thấy được nhiều niệm an lạc. Rõ ràng chẳng phải là Niết Bàn.
Hỏi rằng: Tất cả đều đầy đủ thành, câu văn như thế nào là đúng?
Đáp rằng: Giữ trí làm chánh.
 Hỏi rằng: Nếu như vậy thì câu văn trước giải thích như thế nào đây?
Đáp rằng: Niết Bàn tướng; cho nên gọi là Niết Bàn. Lại nữa cầu (xe)Dê, Hươu là vì Niết Bàn vậy. Chẳng dùng Niết Bàn hợp với Dê, Hươu.
Hỏi rằng: Như vậy thì kia lại giải thích rằng: Tri kiến tánh; cho nên Tam Muội tánh; gọi tên là Tri Kiến v.v… Lý thật Niết Bàn. Đây lại là điều gì vậy?
Đáp rằng: Do giải thích câu văn sai. Hợp với xe Hươu là nói vui riêng với điều lành tịch tĩnh, sâu rõ các pháp nhơn duyên. Cùng với xe trâu nghĩa là nói cảm nhận an lạc, độ thóat trời người. Lại nói rằng: Ta dùng vô lậu căn lực, để tự vui. Lại nói rằng: Ta có xe lớn bảy báu như vậy, số nhiều vô lượng. Hãy nên cùng với tâm, mỗi mỗi cùng nhau. Chớ cho sai biệt.
Nếu là Niết Bàn, há nói vô số, mỗi mỗi cùng nhau? Nếu nói chơn như, chỉ một, mà lại nói đến bảy lọai? hoặc 10 v.v… Căn cứ vào đây có thể chứng minh được để nói rằng có vô lượng cùng với mỗi mỗi như vậy. Điều nầy nghĩa là chẳng phải như vậy. Nói rõ ra là vì xe. Lý lấy làm thật; cho nên nơi nầy có sai. Tổng nói là vì lý. Nếu chỉ giữ lấy lý; tức là khuyết mất Bồ Đề. Nay chấp vào trí. Trí đọan đầy đủ, huống là lại như phía trước phần thứ nhất nói về cứu cánh, để được tất cả chủng trí.
Lại nói rằng: Làm cho nhập bất thối địa thị hiện cùng với vô lượng trí nghiệp. Kinh cũng nói: Như được pháp định huệ lực trang nghiêm nầy. Lại nói: Giống Phật từ nhân duyên sanh khởi. Lại nói rằng: Xe nầy là xe quý, đến thẳng đạo tràng. Lại nói rằng: Lên xe quý báu nầy đi đến bốn phương. Lại nói rằng căn lực, cùng với các pháp công đức vậy. Lại nói: Ta nay vì ngươi tạo tác ra xe nầy. Cho nên cái lý dụ cho bảo sở. Trước sự có, không tạo ra hữu vi, tu sanh, nói tạo tác.
Chẳng thể nói rõ hóa thành. Chỉ do lý mà nói sự tạo tác. Kia hay tạo; nên gọi là vô bảo thể. Xe trâu đồng với các con; nên xả bỏ. Nếu chấp vào thật lý thì chẳng nói tạo tác, rộng ra có chứng nhiều. Phàm dẫn dụ chẳng đủ; cho nên dùng sự quý báu để dụ cho lý. Xe dụ cho trí thắng.
Hỏi rằng: Cùng Tử ấy thí dụ đối trị với hướng của tăng thượng mạn. Xe của ta và xe của Phật không có sai biệt gì cả. Nếu nói ta và Như Lai , xe ấy chẳng khác biệt; tức là xe nầy cùng với Như Lai tương tự. Ngòai ra Nhiếp Luận cũng nói: Thanh Văn làm Phật, sẽ được giống Phật. Nghĩa ấy ý vui tự thể làm sao để đối trị được?
Đáp rằng: Có hai cách giải thích. Một là nói rằng dự tích cho chính Tiểu Thừa cùng với Như Lai để nói. Như việc Cùng Tử để đối trị. Ta cùng Phật v.v…Lại cũng sẽ được vui; tức là phi đối trị vậy. Cách khác nói rằng: Định tánh của người, chung cuộc chẳng làm Phật được, mà hay làm cho đồng thể, ý vui. Người bất định sẽ làm Phật, dự định cùng với Phật và các chướng chẳng hồi tâm. Nói đối trị chỗ vọng, có khác biệt. Cho nên chẳng giống nhau.
Hỏi rằng: Tứ Đại Thanh Văn nói, dụ cho sự lãnh hội lời dạy; tức là vì Vô Học. Luận ấy vì sao lại nói Hữu Học?
Đáp rằng: Dụ xưa ở nhơn mê chấp làm chính. Nay ngộ rồi, dụ xưa nói vì Hữu Học. Lại chính tự mình giải nói dụ ấy rõ ra để nói vì Hữu Học. Đâu phải sai gì. Chẳng phải vậy sao? Bốn người há tự đối trị.
Hỏi rằng: Thọ ký Thanh Văn vì vui bất định, lại hữu dư sao?
Đáp rằng: Căn cứ vào ở luận giải thông qua bất định, ngược lại với sự biến hóa kia. Cho nên luận nói rằng: Hai lọai Thanh Văn, Như Lai đều thọ ký. Nghĩa là ứng hóa Thanh Văn. Rốt cuộc trở lại phát tâm Bồ Đề.
Hỏi rằng: Ai là bất định và ai là biến hóa?
Đáp rằng: Luận nói về bất định. Căn cứ nơi câu văn, đầy đủ lòng từ của con người thì nói là biến hóa. Ngòai ra đa phần là bất định. Tất cả đều nói sẽ phát tâm Bồ Đề rộng lớn.
Hỏi rằng: Nếu thật dự tính cho Thanh Văn có hồi tâm để làm Phật thì vì sao trong kinh Duy Ma nói rằng: Thanh Văn chúng ta giống như hạt giống hư, chẳng thể dùng lại được? Nhập Đại Thừa Luận cùng với Bồ Đề Tư Lương Luận lại chẳng hứa khả như trong Kinh Pháp Hoa có thật Thanh Văn ấy. Tất nhiên do sự biến hóa. Cũng giống như hạt giống chưa nẩy mầm. Ý nầy không mê hoặc. Lại nữa chẳng thọ sanh thì làm sao tu hành được ba kỳ kiếp?
Đáp rằng: Họ tất cả đều căn cứ theo sự ca tụng Đại Thừa. Có thể Tiểu Thừa chẳng cầu nói cõi ấy. Người bất định thì chung cuộc trở về Đại(Thừa). Làm cho có căn tánh lớn, cầu nơi cõi lớn. Chẳng phải vậy thì kinh luận há có thể sai khác sao? Căn cứ vào những kinh văn nầy, Pháp Hoa hội đủ; bốn lọai Thanh Văn đầu tiên đầy đủ ở hội chúng. Sau đó dừng lại ở ba. Những kẻ tăng thượng thóai lui. Chẳng nói những bậc chơn Thánh rời khỏi chỗ ngồi. Nghe kinh rồi làm cho thành thục, chẳng ngu nơi pháp.
Trong luận giải thích ghi lại rằng: chẳng vì thọ ký, chẳng chướng ngại chỗ ngồi. Hoặc có thể vô định tánh luận rằng: có tổn hại sự lo sợ; chẳng vì đó mà thọ ký vậy. Căn chưa thành thục; cho nên chẳng ở lại chỗ ngồi; liền rời bỏ đi.
Hỏi rằng: Hóa thành dùng những gì để làm thể?
Đáp rằng: Như những sớ giải thì có giải thích thêm rằng: vô học hậu tâm, thế gian Tam Muội nói vì đó mà hóa thành. Như là thể của hai xe. Dùng căn bản trí, chẳng thể giải rộng. Cho nên hậu đắc trí tạo Niết Bàn, tướng giải lấy làm cứu cánh vậy. Cho nên nói là hóa ra vậy.
Luận nói người thứ tư phương tiện, làm cho vào thành Niết Bàn. Niết Bàn thành là các thành của Thiền Tam Muội.
Hỏi rằng: Nếu như vậy thì vì sao có thể làm tiêu đi sự khổ được?
Đáp rằng: Lìa chướng mà được vậy. Ra khỏi ba cõi; giống như hai xe kia. Nghĩa là họ được ra khỏi nhà. Điều nầy chẳng phải là dứt khổ sao?
Hỏi rằng: Nếu như vậy thì hai xe như thế nào mà chẳng được giả ra hóa thành; tức là được vào?
Đáp rằng: Chẳng thể rõ biết tất cả pháp, không phải chủng trí. Cho nên chẳng được xe. Vì sao vậy? Vì chưa lìa tri chướng, thì làm sao được hóa thành. Khi nào khổ tam giới hết, được giải thóat, hoặc chướng đã lìa.
Hỏi rằng: Nếu như vậy thì gọi Niết Bàn như thế nào?
Đáp rằng: Giả danh Niết Bàn. Phần thứ hai nói rằng: lìa hư vọng như thế nào mới gọi là giải thóat? Điều nầy thật ra chưa được giải thóat tất cả. Lại nói rằng: lúc ấy tâm tự biết được đến Niết Bàn. Chướng tăng thượng mạn tự rõ được quả; nhưng thật ra thì chẳng được. Điều nầy lại cũng như vậy.
Hỏi rằng: Nếu như vậy thì Vô Học há chẳng được Hữu Dư sao?
Đáp rằng: Như kia vô lậu trí ẩn, mà chẳng chướng. Hay nói là thế gian trí. Gọi đây là xe. Điều nầy cũng lại như vậy. Chỉ có hữu dư, chẳng phải cứu cánh. Ẩn mà chẳng chướng, làm cho chấp vào Đại(Thừa). Cho nên luận nói rằng: Làm cho vào thành Niết Bàn vậy. Thành Niết Bàn là thành của các thiền Tam Muội. Nếu như vậy tức là chỉ cho Hữu Dư, sao gọi là thành của các thiền Tam Muội? Lại như Thắng Man kinh cũng nói: Được Tứ Trí cùng với Niết Bàn, rõ biết cảnh giới Niết Bàn gần. Rõ ràng là chẳng phải thật Niết Bàn. Nói gần đến thôi. Nếu Niết Bàn nầy thì đã được rồi, sao gọi là gần? Thành Duy Thức Luận quyển mười nói rằng: Chẳng nói Vô Học có Niết Bàn. Điều kia có hai cách giải thích. Một là nói: hoặc ước bất định tánh, được Vô Học rồi; tức là hướng đến Đại(Thừa); chẳng nói kia được. Chính cùng với kia giống nhau. Nếu định tánh thì người,Dê,Hươu hai xe; tức là sự sanh trí kia. Cho nên nói hóa thành; tức là Nhị(Thừa)Niết Bàn. Kia cứu cánh vậy. Chẳng phải dần hết. Chẳng vui nơi Đại(Thừa). Chẳng cùng, chẳng định.
Hỏi rằng: Như cầu ba cõi sẽ vì thế lực nói ví dụ cho nhà lửa, làm cho xa rời cuộc đời nầy, chẳng làm cho cầu riêng; nên nói ba xe để đối trị; tức là có định nhơn. Thật chẳng phải Niết Bàn mà có tăng thượng mạn. Dùng có thế gian, tam muội, tam ma phạt đề, thật chẳng phải Niết Bàn, mà là Niết Bàn sanh tưởng. Để đối trị với điều nầy cho nên nói thí dụ hóa thành. Nên biết rằng Hữu Học chấp thế gian tam muội, lấy đó làm Niết Bàn. Thật ra thì chẳng phải Niết Bàn. Gọi là tăng thượng mạn. Nay nói thế gian tam muội gọi là hóa thành. Giống như nhà lửa làm cho lo sợ chẳng giữ lại. Như vậy thì được cái gì để nói người thứ tư phương tiện, làm cho vào thành Niết Bàn? Nếu như chấp vào thế gian tam muội; gọi là Niết Bàn thì há chẳng tăng lên sự chấp kia sao? Lại nữa chẳng rõ hóa ấy cầu nhập vào thành kia, liền nói là hóa. Sao lại nghỉ,mong sau mới hướng tới Đại(Thừa)?
Đáp rằng: Chính là Vô Học bàn về việc xưa. Quyền ấy làm cho dừng lại. Căn bản là muốn dần dừng nơi không, để hướng đến Đại(Thừa). Nay lại thêm nghĩa đối trị với Hữu Học. Người bất định hay sâu hướng đến Đại(Thừa). Người có định chấp kia Vô Học, chứng được Niết Bàn, sẽ làm cứu cánh, tác ý vui mừng. Nay Phật nói kia chẳng phải thật diệt, giống như hóa thành. Cho nên xưa nay nói là Niết Bàn. Do ta phương tiện làm kẻ thối tâm giả vào thành Niết Bàn, khiến cho liền đỡ mệt. Sau khi qua khỏi thành nầy rồi, làm cho vào thành Đại Niết Bàn, là chỗ trân quý. Làm cho kẻ Hữu Học rõ biết xả điều nầy để cầu Đại(Niết Bàn). Vì để đối trị; nên tạo ra hóa thành, mà đối trị kia lại không, thì điều nầy tức là làm cho 4 người, tạo ra hóa thành để cầu nhập vào, như câu văn đã giải thích. Cùng với lý chẳng sai. Kẻ ngu thấy mà vui, lại còn lấy vui mà giải thích.
Hỏi rằng: mười vô thượng, chính là nói về cái gì vậy ?
Đáp rằng: Chính là Thanh Văn bất định tánh vậy. Luận nói rằng: Thị hiện chủng tử vô thượng cho nên nói hai thí dụ. Các ngươi chỗ hành là con đường Bồ Tát. Nghĩa là phát tâm Bồ Đề xong rồi trở lại trước, chỗ tu hành căn lành chẳng mất là cái nhơn của kia là hậu đắc quả. Ý ấy nói Nhị Thừa trong thân có chủng tử của Bồ Tát, thường hay trở lại tu hành đều được làm Phật. Sự phát tâm ấy làm cho kiên cố. Kẻ chưa phát tâm làm cho cửa vô thượng lại phát tâm. Lại nói thối lui rồi trở lại phát tâm như trước chỗ tu hành, căn lành chẳng mất, cùng sau đó được quả. Rõ ràng là bất định.
Hỏi rằng: Nếu mà như vậy thì tại sao mười lọai vô thượng chẳng đều ở tại chánh tông?
Đáp rằng: Chẳng riêng để hiển lý Nhứt Thừa, mà tán thán khuyến khích gìn giữ. Cho nên thông qua hai phần và lược bớt đại cương. Ngòai ra chẳng thuật lại nhiều.
Hỏi rằng: Mười vô thượng nầy có lần lượt chăng?
Đáp rằng: Dùng nghĩa để căn cứ, làm cho khuyến phát tâm, đầy đủ lực của nhơn và nói điều nầy gặp được cái nhơn lớn vậy. Làm cho thuận theo đó mà tu hành, sẽ được Phật quả. Cho nên nói là chủng tử vô thượng. Tức là làm rõ để nói các ngươi chỗ hành là con đường Bồ Tát thiện lương. Làm rõ khi xưa phát tâm căn lành chẳng mất. Khiến cho nghe phật pháp, trở lại giống như làm cái nhơn, sau đó được quả vậy. Nói đây là hữu thắng nhơn. Qua thời gian dài, là cái nhơn tu vô thượng, rồi mới đắc quả. Nói như Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai đã được Bồ Đề giống như trải qua trong 10 kiếp. Hiển quả thắng thượng, tu nhơn vô thượng.
Thứ đến nói về tu hành vô thượng. Tu hành vô thượng nghĩa là cần thực hành Đại Hạnh. Vì sao ở giữa lãnh thọ việc nhỏ? Hằng vì xưa nay từng phát tâm lớn; giữa chừng thối lui; chẳng thể mau thành. Quyền thí phương tiện, làm cho dứt khổ đi, sau đó tiến lên Đại; cho nên nói là tăng trưởng công đức lực vô thượng. Rõ biết xưa nay những gì từng phát tâm lớn. Nói về châu báu dụ cho sự lãnh giải nầy. Cho nên lần lượt làm cho rõ biết vô thượng. Còn biết lâu nay lâu dài tu hành là cái nhơn của Đại. Hay vì sợ Đại; cho nên giữa đường thối lui. Nay có thể nhớ nghĩ lại rõ biết tu hành. Như các vị Bồ Tát sẽ được Tịnh Độ; cho nên lần lượt nói về thanh tịnh quốc độ. Vô thượng rõ biết, liền tăng sâu sự nghe biết để giải thóat. Do vậy lần lượt nói về vô thượng, khai mở vô thượng sự chỉ bày, trong nhiều kiếp hành nhơn, tất cả đều thành người tuyệt diệu. Cho nên lần lượt nói về sự giáo hóa chúng sanh. Vô thượng thắng nhơn tức là tích chứa, sẽ được thắng quả. Chẳng hề giống với Nhị Thừa. Cho nên lần lượt nói thành Đại Bồ Đề vô thượng chứng quả. Tuy phải chứng, diệt mà có thể trong hiện tại làm lợi sanh. Pháp, Báo thân tuy vẫn thường tại. Hóa thân ứng vật chẳng nhất định. Tuy diệt mà chẳng diệt. Tuy sanh mà chẳng sanh. Cho nên lần lượt nói Niết Bàn vô thượng. Chỗ nói ấy liền làm cho rộng rãi, lợi ích vô biên. Khởi lên lòng tin, cúng dường, nghe pháp, gìn giữ, tán thán, được vô biên phước đức. Hiện nơi thần lực, đưa kia vào chỗ thắng hạnh và người, pháp đều chứng.
Lại nữa do hành nhơn sâu xa có thể hóa, có thể thọ. Bậc Thánh xa đến, vui mừng liền nghe kinh. Như Lai xoa đầu, từ bi tán thán ba lần, làm rõ việc vui nầy. Muốn được lưu thông; cho nên lần lượt nói thắng diệu lực vô thượng. Các Tông đều giải thích, mà sự khác nhau lại vô cùng. Kinh luận ra đời nhiều cửa ngõ. Ở trong ấy nên rõ thấy vô lượng. Lược nói nguyên nhơn để giảng lần lượt. Nhận nghe lời thuật ít nhiều, nhiều vị chưa rõ thì nên nghe nhiều, để thêm vào cho đầy đủ.
Pháp Hoa Huyền Tán Nghĩa xong.
 Dịch xong Pháp Hoa Huyền Tán Nghĩa nầy vào ngày 20 tháng tư âm lịch năm Quý Tỵ, nhằm ngày 29 tháng 5 năm 2013 tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc, kỷ niệm đúng 50 năm ngày Bồ Tát Thích Quảng Đức tự thiêu vào mùa Phật Đản năm 1963 tại ngã tư Phan Đình Phùng – Lê Văn Duyệt - Sài Gòn. Ngài đã để lại cho hậu thế một quả tim bất diệt.
Năm nay trong mùa An Cư Kiết Hạ, mỗi tối vào lúc 20 giờ đến 21 giờ 45 phút Đại chúng chùa Viên Giác tại Hannover Đức Quốc đã lạy kinh Đại Bát Niết Bàn đến quyển II mỗi chữ mỗi lạy; đến phẩm Sư Tử Hống trang 303. Mỗi đêm thường lạy được 300 đến 350 lạy. Kể từ năm 1984 đến nay(2013) là năm thứ 30; năm nào chùa Viên Giác cũng lạy kinh bộ và mỗi chữ mỗi lạy như vậy. Ví dụ như Kinh: Ngũ Bách Danh, Tam Thiên Phật Danh, Kinh Vạn Phật , Kinh Pháp Hoa, Kinh Đại Bát Niết Bàn. Đây là một công đức thật là bất khả tư nghì mà cá nhân chúng tôi cũng như Đại Chúng đã thể hiện việc hành trì của mình trong những mùa An Cư Kiết Hạ như vậy.

 Thích Như Điển – Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc cung kính ghi lại những việc tu học tại đây trong suốt 30 năm như vậy để đời sau lấy đó làm niềm tin. (Tiếp theo)
Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013 (Chùa Khánh Anh) Pháp Quốc, cuối tháng 3 năm 2013.



Nói Phẩm ấy có không. Giữa ấy nói 5 việc lớn, 3 nhỏ chẳng dễ, vì để cho con đường chư Thiên Đế Thích an ổn nên nói. Cách dịch ấy vì trình bày 5, mất cái chính hết 3, chẳng phải dễ. Một là tiếng Phạn trong sách ấy cho đến Bổn ấy khiến trình bày. Một là mất Bổn. Hai là kinh tiếng Phạn chất lượng cao, người trình bày thích câu văn, có thể truyền đến tâm chúng sanh, chẳng phải văn từ thì chẳng được. Hai là mất đi Bổn. Ba là câu văn chữ Phạn đầy đủ, cho đến việc than vịnh chắc rằng hàm chứa khác; hoặc giả 4 ấy chẳng gồm việc não hại nầy, mà nay ghi lại đây vậy. Ba là tất cả đều là Bổn. Bốn là chữ Phạn có nghĩa nói đúng là giống như lọan từ. Tìm tòi kiểm tra hướng đến ngôn ngữ, câu văn lại chẳng khác. Hoặc một ngàn, hoặc năm trăm, nay thì chẳng còn tồn tại. Bốn là mất Bổn. Năm là việc ấy giống như được tác thành; nên gần giống như là trái lại với ngôn từ phía trước. Từ đây về sau sẽ nói để trừ nghi. Năm điều nầy mất bản chính.

Kế đó tâm của Trí Kính Tam Đạt muốn làm đầy đủ bộ mặt để diễn giải chỗ Thánh, tất nhiên cái nhơn lúc ấy với người tục lại khác mà thường thì sách ấy hay với xưa, rồi thích nghi với nay; đây chẳng phải là chuyện dễ vậy. Kẻ phàm bị tổn thương, Thánh nhân thì gần gũi. Những điều muốn ghi chép cho ngàn lời nói, cốt truyền lại thích hợp cho trăm vua và dưới là muôn họ. Hai việc nầy chẳng dễ. A Nan Xuất Kinh rõ biết Phật chưa lâu. Tôn Giả Đại Ca Diếp làm cho 500 vị lục thông thay đổi, kinh sách cũng thế. Nay đã xa cách cả ngàn năm, chỉ nương với ý để chép. Những vị A La Hán kia cũng chẳng khác gì điều nầy. Việc sanh tử của những kẻ phàm phu thường thường là thế, há chẳng rõ pháp mà nghi ngờ ư. Tách rời ra 3 việc ấy chẳng dễ. Sư thấy từ 5 thành 3 cũng chẳng dễ. Thích Phạm vì đó trình bày. Kẻ cuồng có thể chẳng trấn được, để rõ các phẩm kinh, được gọi trung ấy có hai. Đầu tiên là giải thích tên từng phẩm chẳng giống nhau. Lại nữa làm rõ được tên gọi. Tên gọi chẳng giống như Kinh Chánh Pháp Hoa nói nơi phẩm Quang Doan, phẩm Phương Tiện, phẩm Ứng Thời, phẩm Giải Lạc, phẩm Dược Thảo, phẩm Thọ Thanh Văn Quyết, phẩm Vãng Kiết, phẩm Thọ Ngũ Bá Đệ Tử Quyết, phẩm thọ A Nan La Vân Quyết, phẩm Dược Vương Như Lai, phẩm Thất Bảo Tháp, phẩm Đề Bà Đạt Đa, phẩm Nhập Bảo Tháp, phẩm Khuyến Thuyết, phẩm An Hạnh, phẩm Tha Địa Dũng Xuất, phẩm Như Lai Hiện Thọ, phẩm Hành Phước Sự, phẩm Cần Minh, phẩm Thán Pháp Sư, phẩm Bị Khinh Mạn, phẩm Như Lai Thần Túc Hành, phẩm Dược Vương Bồ Tát, phẩm Diệu Hống Bồ Tát, phẩm Quan Thế Âm Phổ Môn, phẩm Tổng Trì, phẩm Tịnh Phục Tịnh Vương, phẩm Lạc Phổ Hiền. Chưa nói Phật nói phẩm nầy; lúc ấy như hằng hà sa ức, trăm ngàn Bồ Tát hội tụ tất cả đều được Tổng Trì. Phẩm Chúc Lũy. Giải thích các phẩm trong sự phế lập. Chúc Lũy lại ở trước phẩm Dược Vương; cho đến có 8 việc sai khác về thập chứng chúc lũy; nay ở trước phẩm Dược Vương. Bây giờ trở lại như vậy cho nên chứng được và thường sai hóa Phật trở lại nước. Tháp của Phật Đa Bảo chưa hòan lại; hai việc không lời, Phật tán thán chứng đạo. Trong phẩm Dược Vương lại nói về Tháp, ca ngợi 3 diệu âm, hân hoan kính ngưỡng việc chứng đạo. Từ dưới đất vọt lên biến thể phân thân. Diệu Âm hay đãnh lễ hai vị Phật; 4 uế độ chẳng thanh tịnh, chứng được. Hóa Phật chưa hòan lại. Thí dụ nầy làm cho thanh tịnh. Diệu Âm đến, ngày ấy tại sao bị biết? Năm lần hỏi Phật đến chẳng chứng. Nói rằng Đa Bảo Như Lai đến nghe pháp chăng? liền chẳng thấy Đa Bảo, khiến tháp đóng cửa, sáu là muốn thấy Đức Đa Bảo chứng đạo. Nếu chưa đóng cửa tháp thì hai vị Phật cùng ngồi, chính mỗi người đều thấy, cần thỉnh để thấy sao? Bảy là thỉnh thấy, tuy chỉ nghe việc chứng, liền nghe được âm thanh; chẳng nói là thấy Phật. Trí sáng đã khép lại. Tám là cung kính tháp; không có Phật chứng; hai Đức Phật cùng ngồi; nên đãnh lễ hai vị. Vì sao lại nói lễ tháp Đa Bảo? Chín là chia hai chẳng rõ chứng. Hóa Phật nếu như chưa hòan lại. Vì sao lại chẳng phụng thí. Mười là chẳng phân biệt chứng phân thân. Nếu phẩm Dược Vương thí dụ có hóa Phật. Sao lại chẳng có câu văn nói chứng? Đây chính là 10 điều chứng theo chúc lũy, chẳng phải về sau. Rộng như kia nói, kính tin tìm hiểu, lý màu, câu văn thông suốt, thì nghĩa ấy có hằng ngàn cách. Nay việc phiên dịch quy về sách cũ như cái đức ở trên. Cho nên 10 chứng chúc lũy ấy nay nói trước, như có 10 việc chẳng thể. Cho nên Chúc Lũy lại ở phần sau của kinh nầy. Một là làm cho trở lại như xưa, chứng chẳng thể được. Chẳng có lời nói như vậy, nên thường hay làm cho tháp đóng cửa, chẳng trở lại nước mình. Kinh Chánh Pháp Hoa nói rằng: Đa Bảo Thế Tôn làm cho Thất Bảo giảng đường ở nơi tháp Phật hòan lại như cũ. Cho nên nơi ấy lại chẳng có thể nói. Kinh gốc chỉ có sai biệt; tuy một vị Phật nói lại chẳng đồng, thấy nhỏ, nghe khác. Hai là chẳng nói Phật tán thán việc chứng đạo là chẳng thể.
Phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự nói rằng: Đức Đa Bảo Như Lai ở nơi tháp Thất Bảo tán thán nói rằng: Lành thay! lành thay! tuy mở tháp báu; Phật chẳng ở đấy. Nay nói Đa Bảo ở trong tháp tán thán nói lời lành thay; chẳng phải nói tháp tán thán, nói chẳng phải Phật tán thán, chứng chẳng thể lời nầy. Ba diệu âm khai mở, kính chứng chẳng thể. Ở phía dưới đất vọt lên đãnh lễ phân thân Diệu Âm chẳng lễ; tức là đã chứng rồi. Lại nữa Văn Thù chẳng lễ phân thân, rồi đi. Phẩm Đề Bà Đạt Đa lại cũng nói như vậy. Cho đến hai Đức Thế Tôn, chỗ tu kính đã hòan tất, qua nơi Ngài Trí Tích; chẳng nói biến lễ, há hóa Phật đi khỏi; cho nên lấy đó mà chẳng thể. Bốn uế độ phi tịnh, chẳng thể chứng được. Nếu dùng Diệu Âm để chỉ bày cho kia trở lại nơi uế độ thì ứng hóa Phật đến Linh Sơn, ra khỏi nơi ấy thì chẳng tịnh. Nếu nói rằng chỉ có các núi lớn mới căn cứ vào bổn tính để nói về quốc độ thanh tịnh. Diệu Âm thấy uế; nên cũng như vậy . Nếu nói tuy biến Tịnh Độ Linh Sơn thường còn; cho nên chẳng vì đó mà thí dụ. Linh Sơn chẳng uế, biến tịnh để dụ cho sự tồn tại. Liền xuất hiện đá núi như thế thì được điều gì. Cho nên nói tại ấy là nói rộng lúc ban đầu. Như Văn Thù từ biển vọt lên. Thí dụ để nói về núi Kỳ Xà Quật. Khi ấy liền bay lên hư không, nhìn núi là muốn gì? Cho nên từ hư không bảo tháp , căn cứ vào Bổn, nói đến núi, đất đai, rồi khiến mang hoa đến. Cho nên rõ biết căn cứ vào Bản chẳng phải tịnh độ ở trong, có thể có trong núi Kỳ nầy. Bản văn phía dưới nói rằng:
Lúc ấy ta và chúng tăng đều ra khỏi núi Linh Thứu. Lại căn cứ vào nơi Bản để nói. Nếu nói theo kinh nói thì chỉ lưu lại hội chúng, mà lưu lại người, núi thì chẳng phải. Chúng ấy làm cho nghe pháp, Bản ấy có thể giữ lại nơi núi, chẳng nghe kinh được lưu giữ, có ích gì? Cho nên nói uế độ chẳng phải tịnh, chứng chẳng thể được. Năm lần hỏi Phật đến, chẳng chứng chẳng thể được. Vì sao Văn Thù mong thấy Diệu Âm. Đức Thích Ca Như Lai nói Đa Bảo Như Lai có thể vì các ngươi mà hiện ra việc nầy. Lúc ấy Phật Đa Bảo bảo Ngài Diệu Âm rằng: Thiện Nam Tử đến. Văn Thù Sư Lợi muốn được gặp, do Đức Phật triệu đến. Thế nào là hỏi thử? Hỏi ấy là vì truyền lại lời Phật; cho nên kinh nói rằng: Tịnh Hoa Trí Phật vấn tấn Đức Thế Tôn. Lại hỏi rằng Đa Bảo Như Lai đến để nghe pháp chăng? Chẳng phải Diệu Âm tự hỏi; cho nên chẳng có thể. Khi ra khỏi sự mong muốn thấy Đa Bảo chứng thì chẳng thể. Nếu nói hai Đức Phật đồng ngồi; tức là có thể thấy đầy đủ, sao cần phải thỉnh Phật?
Ta nay muốn thấy Phật Đa Bảo nghĩa là Bồ Tát hạ nhơn, Như Lai thượng quả, gia bị làm cho thấy, có thể được gặp tôn nhan. Nếu chưa gia bị thì chẳng thể thấy được. Hy vọng Phật gia bị; cho nên thỉnh cầu được gặp. Vả lại Diệu Âm sẽ đến; nên Văn Thù cung thỉnh Phật gia hộ. Diệu Âm liền hiện nơi nguyên nhơn để thấy. Do nhờ Phật lực mà cùng đồng chỗ ngồi, thỉnh rồi mới thấy. Nếu chẳng thỉnh để gặp thì tháp liền đóng; cho nên chẳng có thể. Bảy là thỉnh gặp, chỉ nghe chứng thì chẳng thể. Nếu dùng sự thỉnh gặp, trải qua hay xưng gọi; sự tán thán ấy chẳng nói là thấy thân. Tức là làm rõ chỗ chẳng thấy Đa Bảo. Nay thì Văn Thù nuốn gặp Diệu Âm. Kinh chẳng tán thán việc Diệu Âm đến. Văn Thù được gặp. Văn Thù lại ứng chơn, chẳng thấy Diệu Âm. Nếu đã thỉnh gặp rồi thì được thấy, sao lại nói vậy? Diệu Âm muốn gặp liền gặp. Sao trong câu văn lại nói là việc gặp chẳng thể được? Tám là cung kính tháp, không có Phật chứng thì chẳng thể. Vì sao lại nói Diệu Âm kính tháp mà chẳng nói là kính Phật? Sau khi chứng, tháp đóng lại. Khi Phổ Hiền đến lại chẳng nói kính tháp? Tháp lại cũng không. Chẳng được nói tháp, lúc ấy trả qua đi. Câu văn không lưu lại nơi tháp. Tuy chẳng kính tháp, chẳng phòng có tháp. Chẳng nói kính Phật vì sao lại phòng gặp Phật? Lại như sau khi tháp mở, tất cả đều ở trên hư không. Văn Thù Hải Hội nói là nghinh tiếp ở Linh Sơn. Há chẳng biết rằng Phật tại trong bảo tháp? Dùng núi chính, cho nên nói là nghinh thỉnh ở núi. Dùng điểm chính ở tại tháp; cho nên nói rằng kính tháp. Chẳng phải chẳng nghinh tiếp trên hư không và còn thân cận lễ Phật , mà như xưa nói rằng: hoa sen ấy ở dưới chân, cũng chưa hẳn ở nơi đầu gối. Đây chỉ là một từ ngữ kính trọng. Điều nầy nên rõ như thế. Lại nữa nơi Chánh Pháp Hoa có nói việc Quan Âm cúng chuỗi Anh Lạc. Một phần phụng cúng Đức Thích Ca Mâu Ni, một phần phụng cúng Đức Đa Bảo Như Lai; chẳng nói phụng cúng tháp. Rõ ràng là tháp chưa đóng; nên Diệu Âm được thấy. Bây giờ tuy nói đóng; nhưng mà chẳng thể được. Chín là hai phần chẳng rõ việc chứng thì chẳng thể. Nếu dùng Đa Bảo để chia làm hai thì chẳng gặp hóa Phật. Làm rõ biết hóa Phật; cho nên lúc ấy Long Nữ mới phụng cúng Đức Thích Ca và Đa Bảo lại đã qua rồi. Lại nữa Ngài Văn Thù chẳng lễ phân thân của Đức Đa Bảo; Đa Bảo chẳng phải chẳng không. Quan Âm chẳng cúng phân thân, được những gì mà đã đi khỏi? Cung kính lễ rồi; cho nên chẳng thể. Mười là vô biệt phân thân, chẳng thể chứng được. Giá như bên dưới kinh văn chẳng nói về hóa Phật. Sao lại bỏ cái tính ấy lại? Như phẩm Dược Vương chẳng nói đến Thanh Văn, Thanh Văn há chẳng có? Nếu đứng trong phẩm Phổ Hiền để nói; tức là việc chứng ấy hiện có Thanh Văn. Duy chỉ trong Chánh Pháp Hoa phần Chúc Lũy ở nơi kinh chưa có. Việc làm rõ biết hóa Phật lại cũng có như thế. Nghĩa của câu văn nói có thể tức là có thể. Văn nghĩa chẳng đầy đủ. Vì sao lại nói quá vậy? Vì thế cho nên chẳng có thể.
Trong phần chế bản, câu văn nói thứ nhất về phẩm Phương Tiện, sau đó 8 phẩm nói phần Chánh Tông. Một ấy nói cho đến phần phẩm Bất Khinh Bồ Tát lấy làm Chánh Tông. Tuy có hai cách giải thích ý, dựa vào đó để giải thích. Vì sao vậy? Câu văn ở dưới nói rằng: Nay ở trong kinh nầy tuy nói là nhất thừa, lại cũng nói khai cửa phương tiện; tức là hiển quyền thưở xưa; hiển tướng chơn thật; tức là nay nói lời thật. Lại nơi phẩm Phương Tiện lấy làm căn bản chánh để rõ quyền, thật; cho nên nói về hóa thành dụ. Lại nói lại nghĩa trước. Ba căn rộng nói. Ở phía dưới thì tán thán khuyên làm, thuyết pháp đầy đủ, liền đó Trí Tích thỉnh đến. Vì làm rõ chỗ lưu thông; nên hiển kinh thế lực, hóa thành rộng lớn hơn; chẳng phải đây là quyền hiển nơi nhứt thật. Lại nữa nơi luận ấy giải thích rằng: bảo người con như Thanh Văn, làm các việc và muốn làm cho Thanh Văn quay về với việc lớn. Nơi Nhiếp Đại Thừa nói : vì dẫn nhiếp một lọai và nhiệm trì cho nên nói thành hai thừa, mà chẳng bỏ chỗ kia, há nói rằng báo, pháp(thân) chẳng làm khởi lên hóa(Phật)và khi thành Phật rồi chẳng khởi hóa Phật nữa; nên chẳng làm cho việc tu Phật là nguyên nhơn của đức; cho nên rõ biết chẳng phải xả nơi hóa thân, tuy nói pháp, báo(thân). Lại nữa ba Phật ấy đầy đủ Bồ Đề Vô Thượng ; cho nên nói đệ nhứt thiện. Ngòai ra phẩm Phương Tiện làm sáng tỏ cho đến phẩm Thường Bất Khinh làm Chánh Tông. Cho đến phía dưới phẩm Phương Tiện 19 phẩm làm sáng tỏ kinh thể, sau 8 phẩm làm rõ chỗ lưu thông. Tựa ấy làm rõ chỗ dạy dỗ, do thể ấy làm rõ sự lợi ích nơi chỗ ngồi. Nếu dung được sự thọ ký làm ích lợi thì tức là nói phẩm Phương Tiện nầy và dưới đó 8 phẩm làm Chánh Tông. Nếu được chứng thì tất cả được gọi là lợi ích. Sự hướng dẫn của Pháp Sư tốt đẹp cho đến phẩm Phổ Hiền tại sao phải đến Bất Khinh. Điều nầy có lớn có nhỏ; ngòai ra như trứơc đã chế định, được mất có thể rõ biết. Có giải thích về 7 việc thành tựu. Bài tựa, sự thành tựu lại có hai. Một là trong những pháp môn hiển thị có tốt. Hai là tự tại công đức thành tựu. Nói pháp môn tối thắng; cho nên chia ra câu văn thành tựu nơi lời tựa. Tự tại công đức; cho nên chia ra làm sáu lọai. Đây chính là sự giải thích về luận đúng, sai.
Luận ấy tự phân chia ra bảy thành tựu như đã nói. Lại nữa phần tựa thành tựu; tức là mỗi mỗi tờ giải thích, dung hai nghĩa nầy phân biệt thuộc thành trì của núi. Làm sao được tự tại trực thuộc 6 thành tựu mà chẳng thể nói? Luận nói rằng: hiển thị pháp thù thắng nầy tức là đề cao những chỗ thuộc kinh văn. Công đức thành tựu nghĩa là chẳng thể kết hợp phân phối rõ ràng thuộc phạm vi ngòai 6 ấy. Dùng pháp tốt đẹp nói đến việc hiển thị hai việc phía trước. Lấy đó có thể chỉ bày rộng ra và chỗ công đức rộng lớn ấy gọi là pháp. Pháp ấy gọi là rộng rãi rồi giải về”ta nghe như vầy”. Tất cả đều nói rằng chính A Nan gần gũi thân cận nghe từ Phật.
Hỏi rằng:Như Phật thành đạo sau hai mươi năm A Nan mới bắt đầu xuất gia thì làm sao các kinh đều có thể ghi là”Ta nghe như vầy”?                             
Đáp rằng: Vì Phật nói lại lần nữa . Sao biết được điều nầy? Trong kinh Bồ Tát Xứ Thai đều nói rộng phân biệt điều nầy. Trong thời gian Phật nói, kẻ chẳng nghe là A Nan, thì nói là không nghe và Phật bảo nghe nên nói. A Nan được Tam Muội nơi Phật; cho nên có thể thọ trì được vậy.
Hỏi rằng: Nếu như thế thì tại sao Đại Trí Độ nói rằng: Lúc A Nan ngồi tòa cao để nói kinh thì hướng đến nơi Đức Phật nhập Niết Bàn để nói kệ rằng: Lúc Đức Phật mới chuyển bánh xe pháp thì lúc bấy giờ ta chưa thấy, nghe triển chuyển như vậy. Xưa nơi Ba La Nại vì 5 Tỳ Kheo mà chuyển bánh xe pháp Tứ Đế?
Đáp rằng: Văn của Đại Trí Độ Luận tùy theo bộ kia ; cho nên nói như thế. Lại nữa giải thích Đức Phật tại đó lần đầu tiên vì 5 người mà nói. Sau đó lại vì A Nan mà nói lại. Nói đấy là nghe triển chuyển.
Hỏi rằng: Nếu như vậy thì Nhập Đại Thừa Luận nói rằng: A Nan giữ pháp chẳng hết . Vì trước đó 20 năm tất cả đều chẳng nghe. Lại nữa dẫn theo kinh A Hàm thì nói: Thích Đề Hòan Nhơn sai Uất Đa La nói. Tôn Giả ! ta được tha tâm nên quan sát tất cả chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề chẳng có thể hay thọ trì Phật Pháp; chỉ trừ Tôn Giả; ngòai ra chẳng ai có thể. Do nguyên nhơn duyên nầy có thể biết rằng A Nan chẳng thể lãnh hội. Lại nơi kinh Thủ Lăng Nghiêm, Phật vì Tịnh Nhựt Tạng Thiên Tử mà nói. Chỗ lãnh hội của A Nan ít, chẳng đủ để nói; chẳng gìn giữ, điều ấy có rất nhiều. Cho đến nói rộng ra lại đầy khắp cả mười phương vi trần thế giới, tất cả đều như A Nan, chẳng thể thọ trì hết, lại cũng như thế chăng?
Đáp rằng: Căn cứ nơi Đức Phật thì những gì chưa như thế , thì chưa vì đó mà nói thêm. Lại giải rằng: Thủ Lăng Nghiêm kinh căn cứ nơi chỗ sở ngộ của Phật, chưa nói pháp; cho nên nói rằng chẳng thể tổng trì. Những gì mà chưa nói như lá trong rừng. Lại nữa, nếu ở nơi nầy nói pháp thì A Nan có thể giữ gìn. Ngòai 10 phương Tịnh Độ khác thì A Nan chẳng thể nghe giữ được.
Hỏi rằng: Nếu A Nan Đà chẳng phải là Đại Bồ Tát thì chẳng thể thọ trì. Nếu Bồ Tát nầy hóa thành Thanh Văn thì sao chẳng thể thọ trì?
Đáp rằng: Tại ở nhơn vị vậy . Nơi hiển tướng thân ở tại thế giới nầy. Ngòai ra nói rằng chẳng thể trì. Ở trong thế giới nầy nếu thật, thì không thể nói gì cả. A Hàm nói chỉ trừ Tôn Giả, ngòai ra chẳng thể được. Uất Đa La lại là Thanh Văn, lìa nơi thai để nói, tất chẳng thể trì, chẳng sai biệt sao. Cho nên tạo ra thông lệ nầy. Những câu văn đã chẳng sai. Nói các lậu đã tận để giải thích. Câu Xá nói rằng: Khể Lưu hữu tình, nơi sanh tử; hoặc làm cho lưu chuyển nơi sanh tử. Từ Trời Hữu Đảnh cho đến ngục Vô Gián, do sự tương tục kia nơi sáu cửa đau đớn. Việc nầy thì vô cùng; cho nên gọi là Vô Lậu.
Thế Thân Bồ Tát thuật lại nói kinh bộ rằng: nếu giải thích tốt thì các cảnh giới lưu chú liên tục; sự sai nầy chẳng dứt; cho nên gọi là lậu. Trong Đại Thừa Tạp Tập thứ sáu nói rằng: Làm cho tâm liên tục lưu chuyển, tan ra chẳng dứt; cho nên gọi là lậu. Điều nầy lại cũng nói rằng: nương vào cửa ngòai lưu chuyển; cho nên tạo thành dục lậu. Nương vào nội môn để lưu chuyển; cho nên thành hữu lậu. Nương vào hai chỗ kia để lưu chuyển; nên gọi là vô minh lậu. Làm cho tâm liên tục lưu chuyển, tan ra chẳng dừng nghỉ, thì đây là nghĩa của lậu.
Giải rằng: nơi cảnh sai quấy, tạo nên tên lậu là cặn bã của Tiểu Thừa, mất đi cái nhu nhuyến của Đại Thừa. Khi ra khỏi lậu, theo Du Già 64 nói về vô minh lậu, chỉ chấp vào cái thấy ác rồi nương vào vô minh, làm vô minh lậu. Cho nên luận kia nói rằng: Lược do năm tướng, lập nên tà, giải thích tà, tà dục vô minh lậu. Một là hữu tưởng luận môn sanh khởi vô minh. Hai là vô tưởng luận môn sanh khởi vô minh. Ba là phi hữu tưởng phi vô tưởng luận môn sanh khởi vô minh. Bốn là do đọan kiến luận môn sanh khởi vô minh. Năm là do hiện pháp Niết Bàn luận môn sanh khởi vô minh. Đây là những câu văn để chứng minh, duy chấp vào phân biệt. Lại nữa hay chấp vào chỗ thấy để nương vào vô minh thì chẳng phải như vậy. Điều nầy chớ nương vào dục giới, ba sự tìm cầu nơi cửa để nói. Chẳng có, tuy nói, chẳng như vậy.
Bên trên lược về cảnh giới vô minh, không lậu, như sau đó sớ giải. Đại Thừa nói lý tận cùng. Du Già thứ 89 nói rằng: các cõi dục trói chặt bởi phiền não, duy trừ vô minh; nên gọi tên là dục lậu. Các cảnh sắc, vô sắc hai cõi ấy là nơi cột tất cả phiền não, trừ vô minh; nên gọi là hữu lậu. Đối với ba cõi; nơi có vô trí, tổng nhiếp làm một, lập nên vô minh lậu. Tất cả Câu Xá đều tụng rằng: dục, phiền não lại cột chặt, trừ si nên gọi là dục lậu. Hữu lậu ở bên trên hai cõi tuy phiền não trừ nghi, vô ký, cùng với nội môn định địa; cho nên hợp nhất. Vô minh các hữu là gốc; cho nên phân biệt làm một lậu; rồi trói buộc trừ hôn trầm trạo cử. Sa Bà nói: cõi kia cột chặt ít, chẳng tự tại. Cứ như phẩm lọai túc luận và kinh bộ luận tông thì thêm hai điều nầy. Tuy nhiên căn cứ vào hai tông thì ba cõi phiền não, ba lậu nhiếp hết. Trong kinh lại nói rằng: lại chẳng có phiền não. Hai là giải thích như sớ giải, chẳng phải ba lậu nhiếp phía trước; họăc chẳng hết, lại nói chẳng có dư. Có cách giải thích rằng: phía trước ba lậu nhiếp thủ, chẳng tận. Lại nói chẳng gồm phiền não. Thật là dối trá. Cuối các kết có nói: chẳng phải là chín kết, tướng ấy như Tông nói. Chín ấy tuy dục giới hiện sự trói buộc; cho nên chấp vào 5, trên dưới phân biệt kết nối. Nay nghĩa ấy chẳng phải vậy. Căn cứ vào 89 nói rằng: Nương vào 9 lọai có thể hòa hợp; cho nên kiến lập nên 9 kết. Một là nương vào phẩm tại gia, có thể thương lòai hữu tình, chẳng phải hữu tình, tất cả cảnh giới, sân tham ái cột chặt. Hai tức là nương vào chỗ tất cả ác cảnh giới sân si cột chặt. Ba là nương vào tự nơi hữu tình kiêu mạn cột chặt. Bốn, năm, sáu nương vào ác thuyết pháp, các phẩm của người xuất gia, ba lọai tà ty, thắng giải cột chặt. Nghĩa là nương vào việc nghe không phải chánh pháp. Nương vào những chỗ chẳng như lý, tà tư duy, nương vào phi phương tiện để tu. Như thế có sự sai biệt liền chia làm ba lọai. Bảy là nương vào nơi lành để thuyết pháp, luật, vô thắng giải cột chặt. Tám là nương vào phẩm xuất gia, trí bần cùng. Chín là nương vào phẩm tại gia tài bần cùng. Như thế khởi lên 9 lọai. Sau đó hai căn cứ vào nguyên nhơn. Dùng phẩm xuất gia về pháp keo kiệt để rõ biết bần cùng trí. Phẩm tại gia keo kiệt về tài sản; cho nên sẽ bần cùng về tài sản. Căn cứ vào điều nầy đa phần sanh nơi dục giới. Không chỉ nói rộng, mà trong Tạp Tục thứ 6 có nói rằng: Ái kết nghĩa là 3 cõi tham ái kết chặt; cho nên mạn kết; tức là thất mạn.Vô minh kết chặt nơi ba cõi vô trí. Trong Đại Đồng Hữu Bộ Biên Luận phần thứ nhất câu văn lại nói rõ; chẳng nói riêng về dục.
Lại nữa quyển 84 nói rằng: Đối với 5 lọai có thể hòa hợp; cho nên nói là kết. Hướng đến 5 cõi có thể sanh nơi năm cõi. Đối với trong các cõi có thể hòa hợp cho nên gọi là hướng đến cõi ấy. Lại nói các cõi chẳng giản đơn như hai cõi trên. Làm sáng tỏ qua ba cõi, ba thấy và hai thủ; mỗi mỗi kết hợp lại như Câu Xá nói: Chấp vào vật; cho nên 3 việc thấy kia có 8o vật. Hai thủ ấy lại cũng như vậy; cho nên gọi là vật. Ba lọai ấy thủ nơi một và có thể chấp giữ; nên gọi là các chấp thủ. Thủ ấy chấp thủ nên có thể thủ hữu phân biệt.
Vì trong nhân duyên ràng buộc nào mà chấp thủ tật keo kiệt chia làm hai?
Đáp rằng: Do tánh bất thiện tự do khởi lên; nên 8 sự trói buộc có thể như vậy. Trong 10 lọai cột chặt phẩn phục lại đầy đủ hai nghĩa; nên gọi là số hiện hành. Lại nữa hai ấy có thể lấy tham tiền tài là nguyên nhơn; cho nên biến hiện, cần sám tùy phiền não; cho nên não lọan cả người xuất gia và tại gia. Do vậy sớ giải rộng ra.Câu văn tận lý.
Nếu năm chấp thủ trên dưới phân kết, rộng hơn phần 84 nói rằng: Hướng về sắc, vô sắc, dục giới; gọi đây là phần dưới. Hướng đầy đủ tu đạo, thấy đạo là phần dưới. Do Ước(Giáo)hai điều nầy phần dưới sai biệt. Rộng ra điều nầy tức là ứng với 5 phần dưới của kết; rộng phân biệt hoặc. Không đầy đủ sanh ái chẳng thành, có kết. Khuyết nhuận sanh là câu văn dư, sai. Điều nầy theo Ước(Giáo)là phần nhiều. Chín kết lại cũng như vậy. Lược đưa ra chỉ 2,3. Ngòai ra câu văn giải khác có nhiều sự thiếu sót, sai quấy. Rộng ra điều nầy có thể rõ biết.
Ví dụ như trong chúng A Tu La, có người dẫn dụ kinh A Hàm nói rằng: Người ở cõi trời Quang Âm Thiên vào biển rồng, trôi trong biển rồi theo đó thành một cái trứng. Trải qua 8.000 năm thì sanh ra A Tu La nữ, thân lớn như núi Tu Di. Có ngàn đầu nhỏ trong nước; riêng chỉ một thân nữ sanh ra Tỳ Ma Chất Đa. Thân hình gấp 4 lần biển lớn; chín đầu 8 chân, ngàn tay nhỏ nhiệm. Vào trong núi thơm Càn Thát Bà nữ sanh Xá Thai. Trong kinh nầy bàn về nghĩa của ngọai đạo. Phía dưới như vậy. Cõi trời dục giới hay chẳng sạch, dơ; há Quang Âm thiên mà chỉ tòan sạch sẽ ư? Có nơi giải thích rằng: Khi thuyết pháp cho đến khi thành tựu; gọi đây là kinh điển Đại Thừa. Có nhiều ý nghĩa khác nhau từ đây trở đi, mà sự khác biệt nầy tên gọi có nhiều cách khác nhau. Theo tất cả những kinh điển Đại Thừa thì nghĩa nầy chưa thể được; chớ nên giải tổng biệt. Lý ấy có thể như vậy. Dùng kinh điển Đại Thừa gọi tất cả kinh Đại Thừa. Điều nầy quá thịnh hành, có nhiều cách gọi sai biệt từ đây trở đi. Thế mà thông tất cả Đại Thừa. Điều nầy tức chưa thể.
Lúc luận giải rồi, đưa ra thuyết rất nhiều nghĩa. Phải rõ tất cả bao nhiêu thì được? Hoặc nói rằng ngòai kinh chưa nói Pháp Hoa nầy. Điều nầy như thế có thể rõ. Mười bảy vị thường giải thích một điều là nghĩa vô lượng. Lại có luận nói rằng: Kinh nầy có 17 tên gọi. Nếu rõ tất cả thì làm thế nào để nói điều nầy? Lại tự giải thích rằng. Lúc ấy chỉ nói một bộ giáo; nhưng nghĩa thì có 3 tên gọi. Như Hoa Nghiêm lại có tên là Phương Quảng. Lại nói rằng: Ngòai ra còn có 14 tên gọi để chú thích nghĩa rộng nữa. Trong kinh có nhiều nghĩa cũng không đủ. Nhiều nghĩa cũng không ngòai tên gọi. Thường là 3 tên. Thế thì tại sao lại có đến 17 tên gọi, qua tất cả kinh điển Đại Thừa? Lại được luận rằng: Kinh Đại Thừa nầy có 17 tên gọi. Nếu tên vô lượng nghĩa thì chẳng đầy đủ. Làm thế nào để nói rằng: trong nầy có 17 tên gọi, thấy trong sáu cõi? Có nói về vua Diệm La, mà kinh Hoa Nghiêm sánh với những cõi khác. Kinh Hoa Nghiêm nói rằng: Làm cho chúng sanh lìa khỏi cõi của vua Diệm La, cái khổ gia hình. Cho nên nói rằng: làm cho chúng sanh lìa địa ngục, súc sanh, ngạ qủy và vua Diệm La nơi có bốn ác khổ. Dùng câu văn nầy để chứng minh xác lập cõi ấy. Nếu so sánh với Du Già luận phần thứ hai thì: khi kiếp sơ đã thành lập xong rồi, có một lòai hữu tình cứ tăng dần lên và do tạp nhiễm nghiệp nên sanh vào nơi lạc già, tạo thành nơi yên ổn , rồi làm vua. Lại nói về chỗ sanh kia; cho nên rõ biết và nhiếp kia. Nay thì nghĩa không phải như vậy. Nếu hứa với cõi kia để nhiếp thì nên thọ khổ của cõi kia. Nếu thọ khổ ở cõi kia thì làm sao có thể trị phạt những hữu tình ở cõi kia được?
Cho nên Duy Thức thứ 20 nói rằng: Duyên gì mà chẳng bằng lòng với ngục tốt, mà lọai nầy thật là lòai hữu tình. Chẳng đúng lý vậy. Sanh vào nơi kia thì chẳng nên nhiếp Na Lạc Già vậy. Chẳng thọ như kia về chỗ thọ khổ. Cho đến có thể tự chẳng thể nhẫn thọ được đất nóng, lửa dữ, đốt cháy khổ sở. Sao lại nói kia có thể bách hại những kẻ kia? Vì như vậy nên rõ rằng chẳng phải nhiếp cõi kia vậy. Lại nữa Hoa Nghiêm nói rằng: Cho đến vua Diệm La là kẻ ở 4 cõi ác khổ, mà vua quan thì ở riêng biệt một cõi. Căn cứ vào cõi thật của qủy thì như A Tu La khác nhau đối với Luận Du Già nói rằng: sanh vào nơi Na Lạc Già rồi yên ổn liền làm vua để phán quyết cõi kia. Lại cũng nói rằng: Sanh nơi Na Lạc Già tạo sự yên tĩnh, rồi làm vua để phán xét các lòai hữu tình thì chẳng phải vậy. Lại nơi Duy Thức thứ 20 có sự sai khác với những kinh luận về cõi qủy nầy.
Hỏi về nghĩa lớn nguyên nhơn để thành tựu thì luận giải thích có 8. Như nghe đầy đủ về thí dụ, rồi mới khai quyền hiển thật. Với Trung Luận thì nói rằng: chỉ bày hai lọai cảnh giới bí mật để làm đốn ngộ cho con người, so với tiệm ngộ chăng?
Đáp rằng: So sánh với nghĩa tuy thông, mà ý là đối với tiệm ngộ. Vì sao vậy? Căn bản là do Thanh Văn tạo nên việc nầy. Muốn làm cho nghe biết pháp khó tin. Nếu căn cứ vào đốn ngộ để chỉ bày cảnh giới bí mật thì liền làm cho chấp vào ý nghĩa của cảnh giới thanh tịnh, sao có thể nói đầy đủ hơn? Cho nên đối với Thanh Văn khiến cho xả bỏ tích quyền. Chỉ cho Thanh Văn cảnh giới bí mật, làm cho chấp vào chỗ thật nầy. Hiển thị cảnh giới bí mật của Bồ Tát. Bên trên tất cả hiển thị làm cho hoan hỷ. Chưa làm rõ, khiến cho tu lý, trí, làm cho tu chứng nơi hai quả. Hữu Đắc Trí xem lý đối với việc nghe.
Hỏi rằng: có thuyết nói về hai lọai cảnh giới bí mật. Nghĩa là thổi pháp loa, đánh pháp cổ lớn. Nghĩa nầy thì như thế nào?
Đáp rằng: Thuyết kia chẳng như lý, không đúng vậy. Luận rằng: Đại pháp cổ là hai câu thị hiện. Nếu chấp vào Pháp Loa tức là đại pháp cổ một câu hiển thị. Sao lại được nói là hai? Nếu nói rằng chấp vào pháp cổ cùng với pháp loa kia nói là hai câu thị hiện, thì chẳng bỏ đại pháp cổ, lại làm sáng tỏ nghĩa gì đây? Nếu nói luận kia là chỗ để phân biệt điều nầy với kinh kia, thì như vậy luận văn ấy tự giải thích về kinh riêng, làm sao có thể dẫn nghĩa giải thích kinh Pháp Hoa nầy? Hà huống là những kinh điển Đại Thừa vô biệt bộ giải thích? Thứ nhất Phật nói vô, hữu hai kinh, chỉ nên từ luận 8 ấy. Câu văn có thể tự ý so sánh những gì mà có thể giải thích. A Hàm 8 lọai sâu xa lại thông, giải thích về trí tuệ. Nghĩa tuy có thể như vậy; nhưng khi giải thích luận văn thì có 8 lọai sâu xa, thông thích làm hai. Sai biệt ở chỗ luận nói. Như thế câu văn có thể rõ biết.
Hỏi rằng: Luận ấy nói: sanh ra sợ hãi thì làm cho đọan lìa sợ hãi, vì lợi ích cho hai lọai người. Câu văn phía dưới lại nói rằng: 4 hối sợ hãi. Nghĩa là Đại Đức Xá Lợi Phất và ta chẳng chứng pháp Tiểu Thừa như vậy, mà tự dừng. Tức là tâm hối quá nầy; gọi đây là sợ hãi; cho nên trước nên sợ. Vì sao lại giải thích rằng: chẳng nói không sợ; nói ấy tức là sợ chăng?
Đáp rằng: có luận nói rằng: Nếu vì sự nói ấy; nghĩa là Ngài Xá Lợi Phất cùng ta chẳng chứng. Cho nên nói rằng: có sợ hãi. Lại như tâm nghi ngờ, liền có mới, cũ. Điều hối quá nầy cũng như thế. Vì muốn đọan trừ sửa đổi nguyên nhơn, hối liền nổi lên. Lại nữa trước hối để tu Tiểu. Nay vì nói phương pháp hối ấy chẳng sớm để tu Đại; cho nên giải thích, không phương hại. Nay lại có một cách giải thích; hoặc có thể sớ giải bản chánh, có ngộ nhận; nên nói là hai. Một thuyết nói có sợ. Thuyết thứ hai; tức là chẳng sợ. Như Xá Lợi Phất nói rằng: nghe nói, chưa nghe, đọan trừ hối vậy. Giải thích nầy tỉnh lược quá, chẳng thuận với kinh luận.
Lại hỏi rằng: Sự sợ hãi có 5 như là: kinh sợ, sợ hãi, lại có sự báng bổ, làm cho thối thác, tổn hại và điên đảo. Vì sao lại bỏ chỗ để lui?
Đáp rằng: Nghe nói rằng: chẳng bổ báng; cho nên ngồi yên. Tăng thượng khởi lên hủy báng; cho nên thối lui chỗ ngồi.
Hỏi rằng: Kẻ tổn họai phỉ báng nghe để phỉ báng; cho nên chẳng thóai lui. Vì sao luận nói rằng: có Thanh Văn chấp giữ, dùng sự thật bổ báng không Đại Thừa chăng?
Đáp rằng: Nghĩa là Thanh Văn chấp thật, kẻ hủy báng không Đại Thừa. Căn cứ xưa kia kẻ phàm phu nghe Tiểu Thừa giáo, chấp vào đó lấy làm cứu cánh. Nghĩa là chẳng có Đại Thừa. Chưa hề nghe nói đến Đại Thừa. Khởi lên sự hủy báng; điều nầy làm tổn hại hoặc phỉ báng. Theo chỗ nương vào Tiểu Thừa cho là cứu cánh. Chấp cứu cánh của ngã như là Niết Bàn. Nay nghe Đại Thừa liền tin, chẳng phỉ báng. Thường cân nhắc, chẳng phân biệt, chẳng thể tiến tu. Liền nghe chỉ có một. Tức là chẳng phải có Thanh Văn được diệt, ngược đạo. Nghi về sanh; cho nên gọi là tổn họai. Cho nên câu văn phía dưới nói rằng: Nếu ta và Đệ Tử thật được A La Hán, Bích Chi Phật, mà chẳng tin kinh nầy, thì chẳng có căn cứ.
Hỏi rằng:Như vậy thì chẳng nói định tánh Nhị Thừa làm chỗ ngồi hiện tại sao?
Đáp rằng: Quả vị Bích Chi Phật thì việc nầy không định. Kinh hay nói việc cầu Duyên Giác. Định Tánh của Thanh Văn tuy chẳng thật có, lại cũng chẳng phải phòng hộ. Làm cho trở thành chẳng phải pháp ngu. Lại nữa giả sử việc nghe ấy có tin; tức chẳng hồi tâm. Lại thêm tổn hại, sợ hãi, chẳng phải lại cũng sai lầm sao?
Hỏi rằng: Khó nói về hai cõi thú như dê , nai, khó ra khỏi chỗ ở. Còn cõi của Thái Tử đối với trâu kia lại cũng nên ra khỏi chỗ ở?
Đáp rằng: Nhị Thừa hoặc Bồ Tát, dê, nai, gọi là ra khỏi nhà. Ở vào kiếp sơ hoặc du hành; chẳng được gọi là ra khỏi nhà.
Hỏi rằng: Địa tiền Bồ Tát hoặc tại khổ chẳng được gọi là ra khỏi nhà. Từ Sơ Địa trở lên hoặc tại khổ lại cũng nên chẳng ra khỏi nhà sao?
Đáp rằng: Phân biệt có hai chướng. Rời khỏi sơ địa được lìa phân đọan; gọi đây là ra khỏi nhà.
Hỏi rằng: như vậy thì sơ địa thọ việc khó khăn để lìa phân đọan; nên gọi là ra khỏi nhà. Ngựơc lại với dễ dãi ở bát địa thọ tiền thì bảy ấy chưa lìa, không thể ra khỏi nhà chăng?
Đáp rằng: Trước bảy(địa)có thể lìa phân đọan. Tuy chẳng phải là không đễ dàng để gọi là ra khỏi nhà.
Hỏi rằng: Nếu như vậy thì ba quả có thể lìa phân đọan chăng? Mà ba quả đầu con người gọi là ra khỏi nhà?
Đáp rằng: Lực của sơ địa Bồ Tát có thể do bi tâm mà chẳng thọ xưng ra khỏi nhà. Trước ba quả người lìa, chẳng định, không phải là điều nầy vậy; cho nên giữ lại, chẳng ra khỏi nhà.
Hỏi rằng: Nếu như ba quả trước chưa thể hồi hướng đến Đại; chẳng thọ, khó khăn, chẳng ra khỏi nhà. Chẳng định hồi tâm, thọ nhận khó khăn, có thể lìa đọan phần; nên gọi là ra khỏi nhà chăng?
Đáp rằng: căn cứ vào kẻ hồi tâm, liền thọ nhân sự khó khăn, được gọi là ra khỏi nhà.
Hỏi rằng: Nếu như vậy thì ba quả đầu con người há được gọi là ra khỏi ba cõi khổ, đầy đủ ba minh và lục thông sao? Phần thứ hai ở dưới nói rằng: Nếu tâm quyết định đầy đủ ba minh và lục thông thì có được Duyên Giác, chẳng thóai tâm Bồ Tát. Trường Hàng lại cũng nói: Thấy các chúng sanh, từ nơi Phật dạy ra khỏi 3 cõi khổ chăng?
Đáp rằng: Những câu văn như vậy căn cứ nơi thuyết quyết định. Hữu học hồi tâm và thọ nhận khó khăn đều bất định; cho nên chẳng chướng; gọi là ra khỏi. Nếu như chẳng phải như vậy thì nên chẳng bỏ xe. Nếu chưa bỏ xe được thì ghi lại cái gì ? Nếu nói rằng: ở trong nhà lại được xe; được nhớ lại, được xe; tức là nên có học cách lên xe để ra khỏi nhà. Nếu như vậy thì khiến cho hữu học hơn vô học. Vì ở trong nhà được xe rồi. Nếu nói rằng: Hữu học chưa gọi là được xe; cho nên nói vô học. Nói những gì mà vô học được ghi lại; tức gọi là cùng xe với xe. Hữu học được thọ ký, chẳng gọi là cùng xe với xe. Nếu nói rằng: cảm nhận cái khổ; cho nên chẳng cùng xe với xe. Trước đệ thất địa lại cũng nên nghĩ như vậy.
Hỏi rằng: Trong Thích Già có so sánh với luận và nói rằng: Kẻ không phải Nhị Thừa thì không Nhị Thừa Niết Bàn. Vì vậy cho nên không Niết Bàn. Vì Hành Quả lại cũng chẳng phi hữu chăng?
Đáp rằng: Có nơi nói rằng có thể chứng trí và có nơi chứng lý. Tức là không có hai Niết Bàn. Sáng tỏ lại cũng không hai trí. Nhị trí đã không; cho nên hai hành cũng không. Hành nhơn chỉ chỗ khởi, lại chẳng có lời dạy riêng biệt; cho nên nói cả hai là vậy. Nghĩa như thật tức chẳng phải như thế. Thường chẳng phải hai lý. Chỉ một chơn như. Duy chỉ có Đại Niết Bàn vậy. Những câu văn trên dưới thường nói về pháp thân thì chẳng có sai biệt. Lại nói những gì về pháp thể, thì chỉ có thể của một thừa. Nhứt thừa thể nghĩa là chư Phật Như Lai bình đẳng pháp thân. Thanh Văn Bích Chi Phật chẳng như thể bình đẳng pháp thân như kia. Do nhân quả, hành quán không giống nhau. Cho nên nói là do nhân qủa hành quán chẳng giống, minh trí hạnh cũng sai biệt.
Lại nữa như trước đã nói rằng 3 thừa pháp kia thường có tên gọi là chương đầu, câu văn nói chẳng phải nghĩa thật. Vì thật nghĩa kia, chẳng thể nói vậy. Lại nữa lý vô vi, thể một ấy, không phân biệt trí hành cùng với sự thật sai biệt ở một phương tiện khác.
Hỏi rằng: Đã nói về thật, chứng A La Hán thì chẳng tin pháp nầy, không tồn tại ở nơi nầy. Sao lại được có sự tổn hại việc lo lắng?
Đáp rằng: Nay nói thật được là căn cứ vào kẻ hồi tâm. Do vậy phần thứ hai nói rằng: Chúng ta ngày nay mới thật là Phật Tử. Lại cũng nói là chơn A La Hán. Kẻ sáng suốt chưa hồi thì chưa phải là Phật Tử, chưa phải là A La Hán. Bất định là như vậy. Định tánh lại cũng như thế. Cho nên nói là chính mình; nghĩa là chẳng phải chơn thật hai Thánh. Nếu như thế thì được gọi là tăng thượng mạn, được thế gian định; nghĩa là được vô lậu; gọi là tăng thượng mạn. Hay được giải thóat nhỏ và chưa được giải thóat lớn. Lại nữa chưa được pháp thân, mà tự cho rằng cùng với Như Lai đồng ngồi nơi tòa giải thóat. Tuy không còn phiền não là sở tri chướng. Do không chướng kia; nên được gọi tên là mạn. Nếu chẳng phải như vậy thì lúc đầu chưa tin, sau đó mới tin; nên mỗi mỗi không có chỗ nầy. Tăng thượng mạn lại cũng như thế, trừ Phật diệt độ rồi, sau đó liền hóa mới được. Tuy tạo ra sự giải thích nầy; nhưng chẳng giống như sự giải thích trước. Phía trước giảm sự lo sợ, giả sử chẳng hồi tâm, nghe lại chẳng phỉ báng, thuận với câu văn nầy.
Hỏi rằng: Kinh nào nói rằng: Ta biết chúng sanh nầy chưa hề tu căn lành. Kinh nầy chính là làm thóai tâm người tu giải thóat. Trước nói rằng: nay ở trong chúng hội nầy như ta cùng với trăm ngàn vạn ức đời đời đã từng từ Phật nhận lãnh sự hóa độ. Quyển thứ hai lại nói rằng: Ta ở nơi hai vạn ức Phật, mà chứng vô thượng đạo; cho nên thường giáo hóa các ngươi chăng?
Đáp rằng: Có hai cách giải. Một nói là chớ căn cứ chỗ chẳng thối; nên căn cứ nơi người nhỏ; nghĩa là chưa tu thiện. Một cách khác nói rằng: giả sử gặp tu lớn. Chẳng phải tăng thượng phẩm thì chưa thành định vị; nghĩa là chưa tu căn lành. Chẳng tòan diện, chẳng tu.
Hỏi rằng: Vì căn cứ vào đời nầy để nói nhiều đời chăng?
Đáp rằng: Nói về nhiều đời, nhiều đời ấy là chỗ hóa độ, há được nói rằng ta gặp để nói. Giả sử ngòai Phật giáo hóa ra, lại cũng nói là vì ta. Chẳng phải chỉ đời nầy. Nghe ấy tức là chứng được Thánh; nơi quả nhỏ. Cực tật sanh ra ba. Giống như Thu Tử trải qua 60 kiếp, há chỉ có đời nầy mới giáo hóa nơi việc nhỏ. Nếu như vậy thì tại sao ở quyển thứ hai nói rằng: đầu tiên nghe Phật pháp, gặp đó liền tin thọ?
Đáp rằng: ban đầu nghe, lại rõ được ngôn ngữ chăng? Chưa thể định cho bây giờ.
Hỏi rằng: Nếu như vậy thì vì sao nói rằng: ta vốn dính mắc tà kiến vì các Thầy Phạm Chí, Đức Thế Tôn rõ biết tâm ta, phá bỏ tà ấy, nói Niết Bàn?
Đáp rằng: Vả lại căn cứ vào đời nầy, chẳng phải chỉ nghe mà ngộ liền chỗ nhỏ. Lại giải thích điều nầy căn cứ vào chỗ hóa hiện, thật thì chẳng phải như vậy. Ta dùng mắt của Phật. Phật có ngũ nhãn; nên nói là Phật nhãn quan. Ở đây ngũ nhãn ấy phân biệt nói về ngũ môn. Một la thể; hai là giải thích tên; ba là được người; bốn là phế lập và năm là tương nhiếp. Phần thứ nhất xuất thể nghĩa là căn cứ vào nhục(nhãn)và thiên nhãn các tông nói khác, rộng ra để bàn, dư nhiều chẳng thuật lại đủ. Thường nương vào Đại Thừa, tự chính tông mình để nói. Có dùng chủng tử nhãn thức; nên gọi là nhãn. Cho nên phần 20 của Duy Thức nói rằng: Thức từ chính hạt giống sanh; giống như tướng của cảnh mà chuyển đổi thành nội ngọai xứ vậy. Phật nói kia chia ra làm 10. Có dùng chủng sắc; nên gọi là nhãn căn. Quán xem nơi duyên và Duyên Luận nói rằng: Thức bên trên sắc công năng; gọi đây là ngũ căn. Với lý công năng cùng với cảnh sắc từ vô thỉ nương tựa nhau để làm duyên. Có thuyết nói rằng: hay do cảm nhãn căn nghiệp chủng; nên gọi là nhãn căn. Thành Duy Thức Luận nói rằng: Có Bích(Chi Phật)như trước đã nói, quá khó rõ biết, phụ vào đó chấp kia lại chuyển. Nên lại nói: Trong thức, chứa hạt giống nghiệp; gọi đây là ngũ sắc căn. Như trên ba cách nói ấy đều chẳng phải đúng nghĩa. Đối với pháp thì Ngũ Uẩn Du Già nói rằng: nhục nhãn thể tánh lấy 4 đại chủng để tạo ra tịnh sắc mà làm nhãn căn. Đối với trong nầy có ba cách nói. Một là chủng tử, hai là hiện hành và ba là cả hai. Thuyết nầy mới đúng. Cho nên Ngũ Uẩn Luận nói rằng: Nhãn căn vì sao có nghĩa là tứ đại; chỗ tạo ra căn thức để nương vào. Dùng sắc để làm cảnh; cho nên thông qua đó hạt giống hiện ra. Thiên nhãn căn thể ấy dùng định để khởi lên tứ đại; chỗ tạo ra tịnh sắc làm tánh. Đây chính là thông với quả vậy. Cho nên Vô Trước Bồ Tát nói trong Bát Nhã luận rằng: Vì sắc nhiếp vậy. Sắc nhiếp lại có hai. Nghĩa là pháp quả tu quả. Pháp quả tức là nhục(nhãn). Tu quả tức là Thiên(nhãn). Pháp tức là tên gọi chung tất cả vậy. Tức có thể cảm nói nghiệp; nhục ấy là quả nầy. Tuy rõ biết tổng gọi riêng là nhục, như nói ở sắc xứ. Tu ấy nghĩa là định nhơn nầy; tu chỗ khởi lên; nên gọi là tu quả. Huệ pháp hai mắt đầy đủ huệ làm tánh. Duyên với chơn và tục hai cảnh riêng biệt. Cho nên Vô Trước Bồ Tát trong Bát Nhã nói rằng: Đệ nhứt nghĩa đế vào đời để nhiếp đế. Lại cũng có nghĩa là đệ nhứt nghĩa trí lực. Thế trí ấy không bị điên đảo chuyển. Đây là một huệ ước, giữ cảnh dụng phần. Phật nhãn tức là lấy 4 nhãn trứơc làm tánh.
Trí Độ Luận nói rằng: Giống như 4 con sông chảy ra biển. Tất cả đều gọi là thiên trì (ao trời). Bốn nhãn trứơc ở nơi thân Phật thì gọi là Phật nhãn. Nếu căn cứ vào Vô Trước Bồ Tát Bát Nhã Luận đã nói thì sau Phật trí mới gọi là Phật nhãn. Luận rằng: Tất cả những chủng tử tất cả nên rõ nhiếp. Lại nói rằng: Tất cả nên rõ trong trí tất cả hạt giống công dụng trí, gọi là Phật nhãn. Trong Đại Trí Độ Luận nói rằng: Căn cứ vào tổng thể xuất thể. Trong Bát Nhã Luận nói mỗi cá biệt xuất thể. Lại cũng trong Bát Nhã luận rằng: 4 trứơc căn cứ vào nguyên nhơn Phật nhãn để ứơc quả, chẳng phải như vậy. Phật quả há có nghiệp cảm dị thục nhãn căn. Lại nữa Phật hậu trí há do bổn trí, chẳng thể đảo chuyển. Hãy rõ biết nhiệm vận vậy. Hoặc cũng trong Đại Trí Độ Luận nói rằng: Tất cả đều gọi là Phật nhãn. Dùng trí mạnh; cho nên tổng nói là trí. Nếu như vậy thì vì sao nói rằng: trong tất cả chủng ứng trí, tất cả chủng vô công dụng trí. Căn cứ vào điều nầy tức là Biến Thủ Hậu Trí làm Phật nhãn. Cho nên trứơc giải rõ.
Hai cách giải thích về tên. Một là tổng; hai là biệt. Tổng ấy gọi là nhãn. Tiếng Phạn gọi là Bạt Già Phạt Sô. Bạt Già ở đây nói là 5. Phạt Sô có nghĩa là hành tận. Nghĩa là như đi chợ đủ lọai vật thấy hết rồi; cho nên nói là hành tận. Nương vào đó để dịch nghĩa là nhãn. Chẳng phải dịch đúng. Tiếng Phạn gọi là Nhãn. Nghĩa là mắt chiếu sáng. Có 5 điều giải thích. Mỗi cách giải thích khác nhau. Nhục(nhãn) nghĩa là dị thục sắc. Nhục ấy tức là nhãn. Riêng nghiệp lấy làm tên. Ánh sáng tự tại thanh khiết,thần dung nên gọi là Thiên. Thiên ấy gọi là thông với dục, sắc, vô sắc; ý nói là sắc thiên. Mắt của Trời; cho nên nương vào người để làm nguyên nhơn. Hoặc là Định Quả Quang Khiết; nên gọi là Thiên. Thiên ấy tức là mắt giữ lại từ nghiệp. Việc giải thích nầy quá viển vông.
Lại nữa Đại Trí Độ Luận nói có giống và khác nhau. Nói rằng: Thiên thì có thiên nhãn; cho nên chẳng phải ấy tức là nhãn. Chiếu soi gọi là huệ. Huệ ấy tức là nhãn. Lại cũng có sự giải thích của Trì Nghiệp. Pháp ấy tức là cảnh. Duyên nơi pháp của nhãn. Gọi đây là pháp nhãn. Căn cứ vào huệ cùng với duyên thông; gọi đây là pháp. Ngòai ra mỗi mỗi biệt duyên. Đây có thể là thông duyên. Lại duyên nơi giáo pháp. Ở đây riêng biệt; nên gọi là pháp nhãn. Phật gọi là như thường. Mắt Phật gọi là Phật nhãn. Nương vào đấy sinh ra sự giải thích.
Ba là được làm người. Dục,sắc ở trong hai cõi hữu tình. Nếu là thiên nhãn nầy thì dục giới có sáu cõi trời cùng với ba châu, trừ Bắc Câu Lô được 4 tĩnh lự căn bản định, có thể khởi thiên nhãn. Dùng đó để được thông. Nhị thừa có huệ nhãn, chiếu sanh không lý. Tuy cũng được pháp nhãn; nhưng lấy sự yếu đuối; cho nên chẳng nói kia thành. Bồ Tát có pháp nhãn, dung hữu chủng trí, hay duyên vào tất cả. Phật có Phật nhãn, cùng hiển có thể rõ biết. Lại nữa thành hậu hậu, tất nhiên có tiền tiền. Thắng được cả chỗ yếu kém. Sự yếu kém chẳng thành hậu được. Thành tiền tiền, chẳng thể định, có thể thành nơi hậu hậu. Đại Trí Độ Luận nói rằng: Trời có Thiên nhãn. Nhị Thừa có Huệ nhãn. Bồ Tát có Pháp nhãn.
Hỏi rằng: nếu Phật có pháp nhãn thì tức nhiên có Phật nhãn. Bồ Tát có Pháp nhãn; nên có tên là Bồ Tát nhãn chăng?
Đáp rằng: Phật nhãn chỉ có Phật có. Do Phật lập thành tên. Pháp ấy chẳng do Bồ Tát. Từ cảnh(giới)nên gọi là Pháp nhãn. Ngòai ra y cứ vào trí.
Hỏi rằng: Pháp ấy chẳng do Bồ Tát, chẳng gọi là Bồ Tát nhãn. Thiên nhãn chẳng do Thiên thì vì sao có tên là thiên nhãn? Lại nữa Thiên nhãn chẳng do Thiên mà được gọi là Thiên nhãn, thì nhục nhãn chẳng do người, thì được nhơn nhãn sao?
Đáp rằng: Nhục(nhãn)thông với các cõi báo; chẳng gọi chỉ nhơn nhãn. Thiên chỉ riêng với pháp kia; cho nên gọi là thiên nhãn.
Hỏi rằng: Pháp thông nơi Phật, lại chẳng gọi là Bồ Tát nhãn. Thiên thông với các chúng, thành gì mà riêng gọi là Thiên nhãn?
Đáp rằng: Phật cùng với thiên xứ thông; cho nên gọi là thiên nhãn. Người chỉ khởi lên sau trời,thuộc thiên nên gọi là thiên nhãn. Lại nữa tên gọi ấy giả lập làm gì giả khổ để cầu. Giả sử tạo ra nhiều thông, rốt cuộc trở lại có nạn. Vả lại mỗi mỗi căn cứ vào nghĩa để lập nên tên gọi nầy.
Hỏi rằng: Bốn phế lập ấy vì sao lại lập nên ngũ nhãn mà chẳng tăng, chẳng giảm vậy?
Đáp rằng: Tất cả các pháp lược nói có hai lọai. Một là sắc pháp . Hai là chẳng phải sắc pháp. Ở trong sắc pháp có 2 lọai nầy. Một là hiển hiện cận sắc. Hai là ẩn tàng viễn sắc. Rõ hiển cận sắc cho nên lập thành nhục nhãn. Rõ ẩn tàng viễn sắc cho nên lập thành thiên nhãn. Hoặc trong sắc căn, định tán nghiệp riêng biệt. Tán nghiệp quả nhãn thành lập, vì nhục nhãn. Định sở khởi nhãn thành lập, vì thiên nhãn. Yếu mạnh chẳng giống nhau; cho nên chia làm hai lọai. Do vậy Vô Trước luận nói rằng: Vị pháp quả, tu quả nầy vì ngũ nhãn. Trần cảnh giới; cho nên sơ sắc nhiếp. Trong phi sắc pháp có lý sự cảnh. Vì liễu lý cảnh lập nên huệ nhãn. Vì liễu sự cảnh lập nên pháp nhãn nầy. Lại nữa duy chỉ một trí căn bản đặc thù; cho nên lập thành hai. Do vậy Vô Trước Luận Đệ Nhất Nghĩa Đế, nhiếp thế đế nhiếp. Lại lấy quả đối nhơn để tổng lập nên Phật nhãn. Cho nên trong Trí Luận ở phía trước tứ nhãn cho đến Phật quả, tổng gọi là Phật nhãn. Hoặc căn cứ được ở người chia thành 5 lọai.
Hỏi rằng: Suy nghĩ so sánh có thể được. Phế lập như vậy thì lần lượt như thế nào?
Đáp rằng: dùng điều yếu, mạnh để dẫn đến việc lần lượt sanh. Đối với trong sắc, nhục nhãn là yếu nhất. Chỉ thấy(sắc)hiển lộ . Thiên nhãn thì mạnh hơn. Thấy qua ẩn hiện; cho nên nói sau về nhục(nhãn). Đối với ở trong phi sắc, do rõ chơn đế, tục trí, chẳng theo lệ. Lại nữa liễu tục do chứng chơn; cho nên nói là được huệ sanh pháp hậu. Trước nhơn sau quả; cho nên kế tiếp là Phật nhãn. Do vậy Vô Trước Luận nói rằng. Đây chính là ngũ nhãn. Trần cảnh giới; cho nên là sơ sắc. Căn cứ vầo đệ nhất nghĩa trí lực; cho nên thế trí chẳng điên đảo chuyển. Từ đó đệ nhứt nghĩa nhiếp ở phía trước. Năm ấy tương nhiếp với nhau. Căn cứ vào luận Du Già nói: Nhãn ấy có 3. Trong kinh Hoa Nghiêm thì nhãn ấy có 10; do cách gọi mà tương nhiếp. Tất cả đều như việc sớ giải. Nếu Du Già thứ 3 lập 1 cho đến 11, cùng với điều nầy tương nhiếp. Lo ngại rộng hơn chẳng thuật lại, kẻ muốn làm rộng hơn thì nên tìm câu văn kia.
Hỏi rằng : Kinh nói Bồ Tát nghe pháp nầy sự nghi ngờ tất cả được giải trừ. 1.200 vị La Hán tất cả đều sẽ làm Phật. Bồ Tát trong hai nghi ấy nay trừ được gì?
Đáp rằng: Cả hai đều trừ . Kia tự rõ được làm Phật, lại chẳng nghi kia chẳng được làm Phật.
Hỏi rằng: Sao mà rõ được?
Đáp rằng: Theo luận thích dụ thì phần thứ ba vì phá một hướng cầu Đại Thừa, chấp không có Nhị Thừa. Cho nên nói hai thí dụ.
Hỏi rằng: Bồ Tát nghi đã trừ, rõ biết được làm Phật, sao lại không được thọ ký?
Đáp rằng: Thanh Văn từ lâu học tập Tiểu(Thừa). Tuy tin rằng tự mình có thể thành Phật, lo ngại chưa được quyết định. Tâm làm cho được quyết định; cho nên cùng thọ ký riêng biệt. Bồ Tát trước chẳng học Tiểu(Thừa). Tuy lo kia thối (tâm)khi nghe nói nhứt thừa, rõ biết không phân biệt Tiểu; tức trụ ở Đại(Thừa)quyết định; cho nên giả thọ ký. Lại nữa cũng cùng thọ ký riêng.
Hỏi rằng: Trước nói chẳng phải nhứt(thừa)chẳng thành Phật; tức là tổng cùng thọ ký. Vì sao lại chẳng thọ ký riêng?
Đáp rằng: Vì nói lược cho nên khi nghe thì khác.
Hỏi rằng: Như vậy nói 1.200 vị A La Hán tất cả đều được làm Phật. Vì tự rõ sẽ được làm Phật, mà Phật chẳng rõ chăng? Nếu tự rõ biết rằng 1.200 người giống như Thu Tử một thuở được thọ ký, vì sao nói hóa thành rồi, mới sanh giải tâm ban đầu cùng với việc thọ ký?
Đáp rằng: Có hai cách giải thích. Một là nói rõ được, mà chưa hướng đến. Cho nên vui với Nhỏ. Nghe nói hóa thành mới hiểu biết và bỏ Tiểu(Thừa). Bắt đầu cũng được thọ ký. Hai là nói chưa rõ, mà khi nghe Phật nói kia sẽ làm Phật. Nghe đến lần thứ ba mới bắt đầu lãnh ngộ.
Hỏi rằng: Vì sao Bồ Tát nghe, nghi liền trừ, rõ biết sẽ làm Phật, còn 1.200 người tự chưa rõ biết được khi Phật nói?
Đáp rằng: Vì lợi(căn)và độn(căn)khác nhau vậy. Thu Tử lợi căn, một lần nghe thường phải giải nghi. Bồ Tát thì hơn hẳn; cho nên nghi ấy liền trừ. 1.200 vị ấy độn căn; cho nên chưa thể giải nghi được.
Hỏi rằng: So sánh phẩm Phân Biệt Công Đức nói rằng: Nếu nghe được phẩm Thọ Lượng, công đức vô thượng mà thóai tâm Bồ Đề thì chẳng có nơi nầy. Xá Lợi Phất ở trong quá khứ đã từng nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, như gặp Đại Thông vậy. Vì sao lại thối lui?
Đáp rằng: Có hai cách giải thích. Một là nói cứu cánh thối lui, rốt cuộc không có ở nơi nầy. Giả sử có thóai thì cũng hòan lại như cũ. Hai là căn cứ vào kẻ ưu việt; hoặc căn cứ người lãnh ngộ nói chẳng phải tịnh, phần thứ ba hiển dương nói rằng: Một là giới tịnh, thiện trụ thi la(giới); cho đến các tội nhỏ, vừa mà thấy lớn, sợ sệt, thọ học, học xứ. Hai là tâm tịnh. Nương vào giới tịnh cho nên trụ ở 4 tĩnh lự(thiền định). Ba là thấy tịnh. Nương vào tâm thanh tịnh; cho nên được lậu tận trí. Hiện quán các chân lý. Bốn là độ nghi tịnh; nương vào chỗ thấy tịnh; cho nên đối với Phật, Pháp, Tăng chẳng hoặc, chẳng nghi. Năm là đạo phi đạo tri kiến tịnh. Nương vào đạo nghi tịnh; cho nên được diệu tri kiến. Rõ Phật chỗ nói đạo hay ra khỏi ngọai đạo để nói, chẳng thể hết khổ. Sáu là hành tri kiến tịnh. Nương vào đạo phi đạo tri kiến tịnh lại được tịnh; cho nên tri kiến tri. Ra khỏi đường ấy có thượng, trung và hạ. Nghĩa là qua lòng từ bi là chỗ nhiếp vậy. Bảy là hành đọan tri kiến tịnh. Nương vào hành tri kiến tịnh; cho nên được diệu trí. Nghĩa là ta sẽ đọan những hành vi hạ, trong cùng với việc phát khởi thiện diệu thánh hạnh. Tám là Vô Dư Tịch Tĩnh Tịnh. Nương vào hành đọan, tri kiến tịnh, chứng đắc vô dư, các lậu vĩnh viễn dứt trừ. Chín là quốc độ tịnh; nghĩa là chư Phật cùng với những công đức vô thượng, có thể thị hiện bất khả tư nghì công đức trang nghiêm ở nhiều quốc độ, làm cho Phật quốc thật cực tịnh, cũng như cực tịnh chư vị Bồ Tát và những quyến thuộc.
Hỏi rằng: Nhà lửa ví dụ Xá Lợi Phất vì thỉnh 1.200 vị, tất cả đều là những vị vô học. Vì sao luận thích nói rằng: Vì hữu học đầy dẫy tánh phiền não của chúng sanh?
Đáp rằng: Có hai cách giải thích. Một là nói theo Đàm Bổn thì nói Quyền Bổn là phàm phu. Nay lấy dụ để hiển; cho nên nói là dẫy đầy tánh phiền não. Như vậy tức là Đàm chứa ý; nên chẳng sai biệt. Hai nói rằng: Căn cứ vào việc Thanh Văn thỉnh. Chính vì Vô Học là bên cạnh của Hữu Học. Căn cứ bên cạnh ấy cho nên nói là phàm phu. Vô Học văn hiển, luận ấy lược chẳng giải thích, chẳng phải vậy. Kinh nầy làm tông sáng tỏ cho Nhứt Thừa. Như trong Phẩm Dược Thảo nói những gì làm cho rõ biết thừa khác. Nói đủ các thừa. Ước(Giáo)có học Thanh Văn làm cho trở thành Đại(Thừa). Văn hiển có thể rõ; cho nên lược bớt chẳng dẫn giải.
Hỏi rằng: Xe Dê, xe Hươu để chỉ cho chấp giữ pháp gì?
Đáp rằng: Căn cứ vào các nhà chú giải thì chấp vào Nhị Thừa Vô Học, sau khi giải thóat con đường của thế gian, tâm định hư chỉ. Đây là xe của chủng trí. Dẫn dụ các con làm cho ra khỏi tâm địa thế gian. Thật chẳng thể rõ tất cả các pháp. Cho nên ra khỏi cửa không được. Có thể chốc lát tu nghĩa, ngôn, không xe. Cho nên luận nói rằng: Người thứ nhất cùng với thế gian trồng đủ các lọai căn lành, tam muội công đức, khiến cho du hí(không thật). Rồi sau đó khiến cho vào Đại Bát Niết Bàn.
Hỏi rằng: Nếu như vậy thì nói những gì là thấp, hợp với dụ để nói về xe? Đây là ba thừa, dùng vô lậu,căn lực, giác đạo, thiền định để mà tự vui vẻ ?
Đáp rằng: Kia đều lên xe nầy trang nghiêm đầy đủ. Lại trong thân vô lậu làm chủ các pháp. Lại cũng có tên là vô lậu.
Hỏi rằng: Nếu như vậy thì xe trâu lại cũng như thế chăng?
Đáp rằng: Cứu cánh kia là thật đức, mà điều hư nầy chỉ cho chẳng phải cứu cánh.
Hỏi rằng: Nếu như vậy thì hữu lậu há gọi là ra khỏi nhà?
Đáp rằng: Ra khỏi từng phần; cho nên gọi là ra khỏi nhà. Lại nữa cách giải thích ấy chỉ cho Vô Học quả vị, chỗ đắc vô lậu, sanh trí tuệ là vì xe dê(xe)hươu. Ở phía dưới nói tự tại không lo, không chỗ nương cầu, không lậu căn v.v…
Hỏi rằng: Nếu như vậy thì xe ra khỏi cửa như thế nào để được trí ?
Đáp rằng: Dùng trí nầy giả và gọi đây chủng trí, sẽ có thể tu học; nên gọi đây là xe tốt. Sơ địa trở lên, được chủng trí xa; cho nên chẳng đủ tốt. Nếu dùng sự tu học gọi là xe tốt thì Thập Địa tất cả đều tu, hằng thường tốt đẹp.
Nếu như vậy tức là Bồ Tát chẳng thể chẳng lên xe, sao được nói là lên xe để du hí? Lại nữa luận nói rằng: trước đó làm cho nhập vào bất thối địa, hiện ra cùng với vô lượng trí nghiệp. Sơ Địa trở lên tức là đắc trí nghiệp. Tuy rõ biết tu học, kinh chẳng nói tốt, nói du hí. Nhị Thừa ra khỏi nhà, chưa được chủng trí. Chưa đến sơ địa, có thể cũng tu học nghĩa, gọi là xe tốt. Lại luận rằng : người thứ nhất nầy cùng với thế gian trồng nhiều căn lành tam muội công đức, làm cho du hí nầy. Sau đó làm cho vào thành Đại Niết Bàn, cùng với trời người thế thiện. Chưa được điều chơn nầy, có thể đầy đủ lời nói tốt. Bồ Tát chẳng để chỉ cho Dê,Hươu. Sơ Địa trở lên được chơn. Cho nên Bồ Tát chẳng tốt. Hoặc có thuyết nói rằng: Sơ cơ hư vọng; cho nên xe phải tốt. Hoặc nói rằng trong nhà nghe ba; ngòai cửa thấy một. Chẳng rõ ai, rõ một. Cho nên đều tốt đẹp cả là chẳng phải nói thật.
Hỏi rằng: Nếu Bồ Tát chẳng phải được xe tốt, gọi là ra khỏi nhà thì có ngồi chăng?
Đáp rằng: Gọi là ra khỏi nhà rồi ngồi. Thường là Ước(Giáo) Nhị Thừa cứu cánh vậy. Lìa chướng tận, tâm dừng lại, kiến lập quả vị. Các vị Bồ Tát học chưa cứu cánh, chưa lìa chướng tận, chẳng kiến lập quả được. Tâm chẳng dừng, chẳng được nói là trống trải trên đất. Duy phân biệt mà gọi là trên mặt đất. Người trước 3 quả cũng lại nên như vậy. Nếu như vậy thì hữu học lại gọi là ra khỏi chỗ ngồi.
Vì sao ở dưới hợp dụ với ở giữa nói là Phật dạy rằng ra khỏi cửa tam giới khổ, sợ hãi, hiểm đạo, được Niết Bàn vui? Lại gỉai thích rằng: Bồ Tát lại cũng được kêu ngồi. Tuy chưa dừng và chưa tạo ra quả, mà dùng trí để an xứ, lại được gọi là ngồi. Có thể hàng phục nghi hoặc; cho nên xuất phần đọan và gọi là ra khỏi ba cõi. Trên đất không hại?
Nếu mà ba quả lại cũng như đã hứa thì cũng chẳng mất đi. Giữ, bỏ nhiệm ý.
Hỏi rằng: Bên ngòai ba cửa, thể của xe nầy có nhiều chỗ chẳng giống nhau chăng?
Đáp rằng: Theo lối giải thích xưa thì đó là Niết Bàn. Nay nói rằng: sau đó được chánh trí. Chấp giữ Niết Bàn mà vì hình tướng của xe. Kinh luận,giải rõ câu văn nầy. Các kinh nói rằng: Muốn mau ra khỏi ba cõi, tự cầu Niết Bàn. Như những đứa con kia vì cầu xe Dê để ra khỏi nơi nhà lửa.
 Hỏi rằng: Luận nói rằng: Sau đó thì vào Niết Bàn; cho nên thủ hậu trí mà vì ba xe kia. Lại nữa câu văn căn cứ vào đâu?
Đáp rằng: Lại trải qua kinh luận để làm rõ câu văn. Nói Dê,Hươu là vì hậu trí. Luận nói rằng con người là đệ nhất, dùng thế gian nầy để trồng những căn lành, tam muội công đức, phương tiện, làm cho vui vẻ, khiến cho vào Niết Bàn. Lại nói trồng các căn lành, tam muội công đức. Rõ ràngchẳng phải Niết Bàn. Cùng với xe Trâu nói cầu tất cả trí Phật, trí tự nhiên, trí vô sư, trí Như Lai để thấy được nhiều niệm an lạc. Rõ ràng chẳng phải là Niết Bàn.
Hỏi rằng: Tất cả đều đầy đủ thành, câu văn như thế nào là đúng?
Đáp rằng: Giữ trí làm chánh.
 Hỏi rằng: Nếu như vậy thì câu văn trước giải thích như thế nào đây?
Đáp rằng: Niết Bàn tướng; cho nên gọi là Niết Bàn. Lại nữa cầu (xe)Dê, Hươu là vì Niết Bàn vậy. Chẳng dùng Niết Bàn hợp với Dê, Hươu.
Hỏi rằng: Như vậy thì kia lại giải thích rằng: Tri kiến tánh; cho nên Tam Muội tánh; gọi tên là Tri Kiến v.v… Lý thật Niết Bàn. Đây lại là điều gì vậy?
Đáp rằng: Do giải thích câu văn sai. Hợp với xe Hươu là nói vui riêng với điều lành tịch tĩnh, sâu rõ các pháp nhơn duyên. Cùng với xe trâu nghĩa là nói cảm nhận an lạc, độ thóat trời người. Lại nói rằng: Ta dùng vô lậu căn lực, để tự vui. Lại nói rằng: Ta có xe lớn bảy báu như vậy, số nhiều vô lượng. Hãy nên cùng với tâm, mỗi mỗi cùng nhau. Chớ cho sai biệt.
Nếu là Niết Bàn, há nói vô số, mỗi mỗi cùng nhau? Nếu nói chơn như, chỉ một, mà lại nói đến bảy lọai? hoặc 10 v.v… Căn cứ vào đây có thể chứng minh được để nói rằng có vô lượng cùng với mỗi mỗi như vậy. Điều nầy nghĩa là chẳng phải như vậy. Nói rõ ra là vì xe. Lý lấy làm thật; cho nên nơi nầy có sai. Tổng nói là vì lý. Nếu chỉ giữ lấy lý; tức là khuyết mất Bồ Đề. Nay chấp vào trí. Trí đọan đầy đủ, huống là lại như phía trước phần thứ nhất nói về cứu cánh, để được tất cả chủng trí.
Lại nói rằng: Làm cho nhập bất thối địa thị hiện cùng với vô lượng trí nghiệp. Kinh cũng nói: Như được pháp định huệ lực trang nghiêm nầy. Lại nói: Giống Phật từ nhân duyên sanh khởi. Lại nói rằng: Xe nầy là xe quý, đến thẳng đạo tràng. Lại nói rằng: Lên xe quý báu nầy đi đến bốn phương. Lại nói rằng căn lực, cùng với các pháp công đức vậy. Lại nói: Ta nay vì ngươi tạo tác ra xe nầy. Cho nên cái lý dụ cho bảo sở. Trước sự có, không tạo ra hữu vi, tu sanh, nói tạo tác.
Chẳng thể nói rõ hóa thành. Chỉ do lý mà nói sự tạo tác. Kia hay tạo; nên gọi là vô bảo thể. Xe trâu đồng với các con; nên xả bỏ. Nếu chấp vào thật lý thì chẳng nói tạo tác, rộng ra có chứng nhiều. Phàm dẫn dụ chẳng đủ; cho nên dùng sự quý báu để dụ cho lý. Xe dụ cho trí thắng.
Hỏi rằng: Cùng Tử ấy thí dụ đối trị với hướng của tăng thượng mạn. Xe của ta và xe của Phật không có sai biệt gì cả. Nếu nói ta và Như Lai , xe ấy chẳng khác biệt; tức là xe nầy cùng với Như Lai tương tự. Ngòai ra Nhiếp Luận cũng nói: Thanh Văn làm Phật, sẽ được giống Phật. Nghĩa ấy ý vui tự thể làm sao để đối trị được?
Đáp rằng: Có hai cách giải thích. Một là nói rằng dự tích cho chính Tiểu Thừa cùng với Như Lai để nói. Như việc Cùng Tử để đối trị. Ta cùng Phật v.v…Lại cũng sẽ được vui; tức là phi đối trị vậy. Cách khác nói rằng: Định tánh của người, chung cuộc chẳng làm Phật được, mà hay làm cho đồng thể, ý vui. Người bất định sẽ làm Phật, dự định cùng với Phật và các chướng chẳng hồi tâm. Nói đối trị chỗ vọng, có khác biệt. Cho nên chẳng giống nhau.
Hỏi rằng: Tứ Đại Thanh Văn nói, dụ cho sự lãnh hội lời dạy; tức là vì Vô Học. Luận ấy vì sao lại nói Hữu Học?
Đáp rằng: Dụ xưa ở nhơn mê chấp làm chính. Nay ngộ rồi, dụ xưa nói vì Hữu Học. Lại chính tự mình giải nói dụ ấy rõ ra để nói vì Hữu Học. Đâu phải sai gì. Chẳng phải vậy sao? Bốn người há tự đối trị.
Hỏi rằng: Thọ ký Thanh Văn vì vui bất định, lại hữu dư sao?
Đáp rằng: Căn cứ vào ở luận giải thông qua bất định, ngược lại với sự biến hóa kia. Cho nên luận nói rằng: Hai lọai Thanh Văn, Như Lai đều thọ ký. Nghĩa là ứng hóa Thanh Văn. Rốt cuộc trở lại phát tâm Bồ Đề.
Hỏi rằng: Ai là bất định và ai là biến hóa?
Đáp rằng: Luận nói về bất định. Căn cứ nơi câu văn, đầy đủ lòng từ của con người thì nói là biến hóa. Ngòai ra đa phần là bất định. Tất cả đều nói sẽ phát tâm Bồ Đề rộng lớn.
Hỏi rằng: Nếu thật dự tính cho Thanh Văn có hồi tâm để làm Phật thì vì sao trong kinh Duy Ma nói rằng: Thanh Văn chúng ta giống như hạt giống hư, chẳng thể dùng lại được? Nhập Đại Thừa Luận cùng với Bồ Đề Tư Lương Luận lại chẳng hứa khả như trong Kinh Pháp Hoa có thật Thanh Văn ấy. Tất nhiên do sự biến hóa. Cũng giống như hạt giống chưa nẩy mầm. Ý nầy không mê hoặc. Lại nữa chẳng thọ sanh thì làm sao tu hành được ba kỳ kiếp?
Đáp rằng: Họ tất cả đều căn cứ theo sự ca tụng Đại Thừa. Có thể Tiểu Thừa chẳng cầu nói cõi ấy. Người bất định thì chung cuộc trở về Đại(Thừa). Làm cho có căn tánh lớn, cầu nơi cõi lớn. Chẳng phải vậy thì kinh luận há có thể sai khác sao? Căn cứ vào những kinh văn nầy, Pháp Hoa hội đủ; bốn lọai Thanh Văn đầu tiên đầy đủ ở hội chúng. Sau đó dừng lại ở ba. Những kẻ tăng thượng thóai lui. Chẳng nói những bậc chơn Thánh rời khỏi chỗ ngồi. Nghe kinh rồi làm cho thành thục, chẳng ngu nơi pháp.
Trong luận giải thích ghi lại rằng: chẳng vì thọ ký, chẳng chướng ngại chỗ ngồi. Hoặc có thể vô định tánh luận rằng: có tổn hại sự lo sợ; chẳng vì đó mà thọ ký vậy. Căn chưa thành thục; cho nên chẳng ở lại chỗ ngồi; liền rời bỏ đi.
Hỏi rằng: Hóa thành dùng những gì để làm thể?
Đáp rằng: Như những sớ giải thì có giải thích thêm rằng: vô học hậu tâm, thế gian Tam Muội nói vì đó mà hóa thành. Như là thể của hai xe. Dùng căn bản trí, chẳng thể giải rộng. Cho nên hậu đắc trí tạo Niết Bàn, tướng giải lấy làm cứu cánh vậy. Cho nên nói là hóa ra vậy.
Luận nói người thứ tư phương tiện, làm cho vào thành Niết Bàn. Niết Bàn thành là các thành của Thiền Tam Muội.
Hỏi rằng: Nếu như vậy thì vì sao có thể làm tiêu đi sự khổ được?
Đáp rằng: Lìa chướng mà được vậy. Ra khỏi ba cõi; giống như hai xe kia. Nghĩa là họ được ra khỏi nhà. Điều nầy chẳng phải là dứt khổ sao?
Hỏi rằng: Nếu như vậy thì hai xe như thế nào mà chẳng được giả ra hóa thành; tức là được vào?
Đáp rằng: Chẳng thể rõ biết tất cả pháp, không phải chủng trí. Cho nên chẳng được xe. Vì sao vậy? Vì chưa lìa tri chướng, thì làm sao được hóa thành. Khi nào khổ tam giới hết, được giải thóat, hoặc chướng đã lìa.
Hỏi rằng: Nếu như vậy thì gọi Niết Bàn như thế nào?
Đáp rằng: Giả danh Niết Bàn. Phần thứ hai nói rằng: lìa hư vọng như thế nào mới gọi là giải thóat? Điều nầy thật ra chưa được giải thóat tất cả. Lại nói rằng: lúc ấy tâm tự biết được đến Niết Bàn. Chướng tăng thượng mạn tự rõ được quả; nhưng thật ra thì chẳng được. Điều nầy lại cũng như vậy.
Hỏi rằng: Nếu như vậy thì Vô Học há chẳng được Hữu Dư sao?
Đáp rằng: Như kia vô lậu trí ẩn, mà chẳng chướng. Hay nói là thế gian trí. Gọi đây là xe. Điều nầy cũng lại như vậy. Chỉ có hữu dư, chẳng phải cứu cánh. Ẩn mà chẳng chướng, làm cho chấp vào Đại(Thừa). Cho nên luận nói rằng: Làm cho vào thành Niết Bàn vậy. Thành Niết Bàn là thành của các thiền Tam Muội. Nếu như vậy tức là chỉ cho Hữu Dư, sao gọi là thành của các thiền Tam Muội? Lại như Thắng Man kinh cũng nói: Được Tứ Trí cùng với Niết Bàn, rõ biết cảnh giới Niết Bàn gần. Rõ ràng là chẳng phải thật Niết Bàn. Nói gần đến thôi. Nếu Niết Bàn nầy thì đã được rồi, sao gọi là gần? Thành Duy Thức Luận quyển mười nói rằng: Chẳng nói Vô Học có Niết Bàn. Điều kia có hai cách giải thích. Một là nói: hoặc ước bất định tánh, được Vô Học rồi; tức là hướng đến Đại(Thừa); chẳng nói kia được. Chính cùng với kia giống nhau. Nếu định tánh thì người,Dê,Hươu hai xe; tức là sự sanh trí kia. Cho nên nói hóa thành; tức là Nhị(Thừa)Niết Bàn. Kia cứu cánh vậy. Chẳng phải dần hết. Chẳng vui nơi Đại(Thừa). Chẳng cùng, chẳng định.
Hỏi rằng: Như cầu ba cõi sẽ vì thế lực nói ví dụ cho nhà lửa, làm cho xa rời cuộc đời nầy, chẳng làm cho cầu riêng; nên nói ba xe để đối trị; tức là có định nhơn. Thật chẳng phải Niết Bàn mà có tăng thượng mạn. Dùng có thế gian, tam muội, tam ma phạt đề, thật chẳng phải Niết Bàn, mà là Niết Bàn sanh tưởng. Để đối trị với điều nầy cho nên nói thí dụ hóa thành. Nên biết rằng Hữu Học chấp thế gian tam muội, lấy đó làm Niết Bàn. Thật ra thì chẳng phải Niết Bàn. Gọi là tăng thượng mạn. Nay nói thế gian tam muội gọi là hóa thành. Giống như nhà lửa làm cho lo sợ chẳng giữ lại. Như vậy thì được cái gì để nói người thứ tư phương tiện, làm cho vào thành Niết Bàn? Nếu như chấp vào thế gian tam muội; gọi là Niết Bàn thì há chẳng tăng lên sự chấp kia sao? Lại nữa chẳng rõ hóa ấy cầu nhập vào thành kia, liền nói là hóa. Sao lại nghỉ,mong sau mới hướng tới Đại(Thừa)?
Đáp rằng: Chính là Vô Học bàn về việc xưa. Quyền ấy làm cho dừng lại. Căn bản là muốn dần dừng nơi không, để hướng đến Đại(Thừa). Nay lại thêm nghĩa đối trị với Hữu Học. Người bất định hay sâu hướng đến Đại(Thừa). Người có định chấp kia Vô Học, chứng được Niết Bàn, sẽ làm cứu cánh, tác ý vui mừng. Nay Phật nói kia chẳng phải thật diệt, giống như hóa thành. Cho nên xưa nay nói là Niết Bàn. Do ta phương tiện làm kẻ thối tâm giả vào thành Niết Bàn, khiến cho liền đỡ mệt. Sau khi qua khỏi thành nầy rồi, làm cho vào thành Đại Niết Bàn, là chỗ trân quý. Làm cho kẻ Hữu Học rõ biết xả điều nầy để cầu Đại(Niết Bàn). Vì để đối trị; nên tạo ra hóa thành, mà đối trị kia lại không, thì điều nầy tức là làm cho 4 người, tạo ra hóa thành để cầu nhập vào, như câu văn đã giải thích. Cùng với lý chẳng sai. Kẻ ngu thấy mà vui, lại còn lấy vui mà giải thích.
Hỏi rằng: mười vô thượng, chính là nói về cái gì vậy ?
Đáp rằng: Chính là Thanh Văn bất định tánh vậy. Luận nói rằng: Thị hiện chủng tử vô thượng cho nên nói hai thí dụ. Các ngươi chỗ hành là con đường Bồ Tát. Nghĩa là phát tâm Bồ Đề xong rồi trở lại trước, chỗ tu hành căn lành chẳng mất là cái nhơn của kia là hậu đắc quả. Ý ấy nói Nhị Thừa trong thân có chủng tử của Bồ Tát, thường hay trở lại tu hành đều được làm Phật. Sự phát tâm ấy làm cho kiên cố. Kẻ chưa phát tâm làm cho cửa vô thượng lại phát tâm. Lại nói thối lui rồi trở lại phát tâm như trước chỗ tu hành, căn lành chẳng mất, cùng sau đó được quả. Rõ ràng là bất định.
Hỏi rằng: Nếu mà như vậy thì tại sao mười lọai vô thượng chẳng đều ở tại chánh tông?
Đáp rằng: Chẳng riêng để hiển lý Nhứt Thừa, mà tán thán khuyến khích gìn giữ. Cho nên thông qua hai phần và lược bớt đại cương. Ngòai ra chẳng thuật lại nhiều.
Hỏi rằng: Mười vô thượng nầy có lần lượt chăng?
Đáp rằng: Dùng nghĩa để căn cứ, làm cho khuyến phát tâm, đầy đủ lực của nhơn và nói điều nầy gặp được cái nhơn lớn vậy. Làm cho thuận theo đó mà tu hành, sẽ được Phật quả. Cho nên nói là chủng tử vô thượng. Tức là làm rõ để nói các ngươi chỗ hành là con đường Bồ Tát thiện lương. Làm rõ khi xưa phát tâm căn lành chẳng mất. Khiến cho nghe phật pháp, trở lại giống như làm cái nhơn, sau đó được quả vậy. Nói đây là hữu thắng nhơn. Qua thời gian dài, là cái nhơn tu vô thượng, rồi mới đắc quả. Nói như Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai đã được Bồ Đề giống như trải qua trong 10 kiếp. Hiển quả thắng thượng, tu nhơn vô thượng.
Thứ đến nói về tu hành vô thượng. Tu hành vô thượng nghĩa là cần thực hành Đại Hạnh. Vì sao ở giữa lãnh thọ việc nhỏ? Hằng vì xưa nay từng phát tâm lớn; giữa chừng thối lui; chẳng thể mau thành. Quyền thí phương tiện, làm cho dứt khổ đi, sau đó tiến lên Đại; cho nên nói là tăng trưởng công đức lực vô thượng. Rõ biết xưa nay những gì từng phát tâm lớn. Nói về châu báu dụ cho sự lãnh giải nầy. Cho nên lần lượt làm cho rõ biết vô thượng. Còn biết lâu nay lâu dài tu hành là cái nhơn của Đại. Hay vì sợ Đại; cho nên giữa đường thối lui. Nay có thể nhớ nghĩ lại rõ biết tu hành. Như các vị Bồ Tát sẽ được Tịnh Độ; cho nên lần lượt nói về thanh tịnh quốc độ. Vô thượng rõ biết, liền tăng sâu sự nghe biết để giải thóat. Do vậy lần lượt nói về vô thượng, khai mở vô thượng sự chỉ bày, trong nhiều kiếp hành nhơn, tất cả đều thành người tuyệt diệu. Cho nên lần lượt nói về sự giáo hóa chúng sanh. Vô thượng thắng nhơn tức là tích chứa, sẽ được thắng quả. Chẳng hề giống với Nhị Thừa. Cho nên lần lượt nói thành Đại Bồ Đề vô thượng chứng quả. Tuy phải chứng, diệt mà có thể trong hiện tại làm lợi sanh. Pháp, Báo thân tuy vẫn thường tại. Hóa thân ứng vật chẳng nhất định. Tuy diệt mà chẳng diệt. Tuy sanh mà chẳng sanh. Cho nên lần lượt nói Niết Bàn vô thượng. Chỗ nói ấy liền làm cho rộng rãi, lợi ích vô biên. Khởi lên lòng tin, cúng dường, nghe pháp, gìn giữ, tán thán, được vô biên phước đức. Hiện nơi thần lực, đưa kia vào chỗ thắng hạnh và người, pháp đều chứng.
Lại nữa do hành nhơn sâu xa có thể hóa, có thể thọ. Bậc Thánh xa đến, vui mừng liền nghe kinh. Như Lai xoa đầu, từ bi tán thán ba lần, làm rõ việc vui nầy. Muốn được lưu thông; cho nên lần lượt nói thắng diệu lực vô thượng. Các Tông đều giải thích, mà sự khác nhau lại vô cùng. Kinh luận ra đời nhiều cửa ngõ. Ở trong ấy nên rõ thấy vô lượng. Lược nói nguyên nhơn để giảng lần lượt. Nhận nghe lời thuật ít nhiều, nhiều vị chưa rõ thì nên nghe nhiều, để thêm vào cho đầy đủ.
Pháp Hoa Huyền Tán Nghĩa xong.
 Dịch xong Pháp Hoa Huyền Tán Nghĩa nầy vào ngày 20 tháng tư âm lịch năm Quý Tỵ, nhằm ngày 29 tháng 5 năm 2013 tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc, kỷ niệm đúng 50 năm ngày Bồ Tát Thích Quảng Đức tự thiêu vào mùa Phật Đản năm 1963 tại ngã tư Phan Đình Phùng – Lê Văn Duyệt - Sài Gòn. Ngài đã để lại cho hậu thế một quả tim bất diệt.
Năm nay trong mùa An Cư Kiết Hạ, mỗi tối vào lúc 20 giờ đến 21 giờ 45 phút Đại chúng chùa Viên Giác tại Hannover Đức Quốc đã lạy kinh Đại Bát Niết Bàn đến quyển II mỗi chữ mỗi lạy; đến phẩm Sư Tử Hống trang 303. Mỗi đêm thường lạy được 300 đến 350 lạy. Kể từ năm 1984 đến nay(2013) là năm thứ 30; năm nào chùa Viên Giác cũng lạy kinh bộ và mỗi chữ mỗi lạy như vậy. Ví dụ như Kinh: Ngũ Bách Danh, Tam Thiên Phật Danh, Kinh Vạn Phật , Kinh Pháp Hoa, Kinh Đại Bát Niết Bàn. Đây là một công đức thật là bất khả tư nghì mà cá nhân chúng tôi cũng như Đại Chúng đã thể hiện việc hành trì của mình trong những mùa An Cư Kiết Hạ như vậy.
 Thích Như Điển – Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc cung kính ghi lại những việc tu học tại đây trong suốt 30 năm như vậy để đời sau lấy đó làm niềm tin.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét