A-Mở Ðề:
Phật ra đời vì một nhân
duyên lớn: Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến.
Người đời thường nói một
cách hời hợt cho qua chuyện, “Ðạo nào cũng tốt!”. Lời nói ấy, hoặc vì xã giao
để cho vui lòng khách, hoặc vì chưa rõ bề mặt trong của các Ðạo khác nhau thế
nào, nên mới ra như thế. Thật ra về mục đích thì đạo nào cũng có giá trị của
nó, chẳng qua chỉ hơn nhau về từng bậc cao thấp mà thôi.
Nhưng mục đích tốt dù sao, cũng chưa đủ. Ðiều quan trọng là làm sao thực hiện được mục đích ấy, và đem lợi ích rộng lớn cho đời. Thử hỏi nếu đạo nào cũng có giá trị như nhau, thì sao trước đây 2500 năm, trong lúc xứ Ấn độ đã có 94 thứ đạo rồi, mà đức Phật Thích Ca còn giáng sinh làm chi nữa?
Nhưng mục đích tốt dù sao, cũng chưa đủ. Ðiều quan trọng là làm sao thực hiện được mục đích ấy, và đem lợi ích rộng lớn cho đời. Thử hỏi nếu đạo nào cũng có giá trị như nhau, thì sao trước đây 2500 năm, trong lúc xứ Ấn độ đã có 94 thứ đạo rồi, mà đức Phật Thích Ca còn giáng sinh làm chi nữa?
Chẳng qua các Ðạo tuy nhiều,
mà chưa được toàn “chơn, thiện, mỹ”, nên đức Phật mới ứng thân thị hiện, dạy
cho chúng sanh đạo Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, ngõ hầu giải thoát khỏi khổ
sanh tử luân hồi, được tự tại vô ngại như Phật. Kinh Pháp Hoa chép, “Vì một
nhân duyên lớn, Phật mới xuất hiện ra đời”.
Nhân duyên lớn ấy là gì?
Chính là: “Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến”, để cho chúng sanh được
nhờ đó mà đổi mê ra ngộ thấy tánh tỏ tâm, vượt sống khỏi chết, lìa khổ được
vui.
Ðịnh Nghĩa
1. Chữ Ðạo nghĩa là gì? Chữ đạo có ba nghĩa: Ðạo là con đường; Ðạo là bổn phận; Ðạo là lý tánh tuyệt đối, là bản thể.
1. Chữ Ðạo nghĩa là gì? Chữ đạo có ba nghĩa: Ðạo là con đường; Ðạo là bổn phận; Ðạo là lý tánh tuyệt đối, là bản thể.
a) Ðạo là con đường, như người ta thường dùng
trong những chữ: nhân đạo, thiên đạo, địa ngục đạo, ngạ quỷ đạo, súc sanh đạo.
Phàm là con đường thì có tốt, xấu, có thiện, ác v.v…Theo đạo Phật, h còn trong
vòng đối đãi, thì không thể gọi hoàn toàn rốt ráo.
b) Ðạo là bổn phận, như người ta
thường dùng những chữ: đạo vua tôi, đạo thầy trò, đạo vợ chồng v.v…Phàm là bổn
phận thì thường chịu ảnh hưởng của phong tục hay tập quán. Phong tục và tập
quán của nước này không giống nước kia. Vì vậy, chữ Ðạo là bổn phận cũng chưa
đúng với nghĩa chữ Ðạo mà nhà Phật muốn nói.
c) Ðạo là* lý tánh tuyệt
đối, là bản theă, nó lìa nói
năng, không thể nghĩ bàn. Ðức Lão tử nói: “Ðạo mà nói ra được, không phải là
đạo”. Xưa có người hỏi một vị Tổ Sư: “Ðạo là gì?”. Tổ sư đáp: “Trước Phật Oai
Âm Vương, không có tên Phật và chúng sanh, lúc ấy chính là Ðạo”.
Chữ Ðạo của nhà Phật chính
là đồng nghĩa với bản thể vậy.
2. Chữ Phật nghĩa là gì? Chữ Phật, nói cho đúng tiếng
Phạn là Bouddha (Phật Ðà). Người Trung Hoa dịch nghĩa là Giác Giả, (bực đã giác
ngộ, sáng suốt hoàn toàn). Giác có ba bực:
a) Tự giác: Nghĩa là tự giác ngộ hoàn
toàn do phước huệ và công phu tu hành, khác với phàm phu là những người còn mê
muội, bị luân hồi trong cõi trần lao, khổ hải.
B) Giác tha: Nghĩa là mình đã giác ngộ,
lại đem phương pháp giác ngộ ấy dạy cho những người tu hành được giác ngộ như
mình. Người tu theo Tiểu Thừa không thể có được giác tha, vì chỉ lo giải thoát
cho mình. Chỉ người tu theo Ðại Thừa mới có được giác tha, nghĩa là giác ngộ
cho hết thảy chúng sanh đang chìm đắm.
C) Giác hạnh viên mãn: Nghĩa là giác ngộ hoàn toàn
đầy đủ cho mình và cho người. Những bậc Bồ Tát, tuy đã giác ngộ cho mình và cho
người, nhưng công hạnh chưa viên mãn, nên chưa gọi được là “Giác Giác Hạnh Viên
Mãn”. Chỉ có Phật mới có * được gọi là Giác Hạnh Viên Mãn.
Chữ Phật là một danh từ
chung để gọi những bậc đã tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn, chứ không
phải là một danh từ riêng để gọi một người nào nhất định. Ai tu hành được chứng
quả như đã nói trên đều được gọi là Phật cả.
3. Ðạo Phật nghĩa là gì? Theo những định nghĩa về chữ
Ðạo và chữ Phật đã nói trên, chúng ta có thể giải thích chữ Ðạo Phật như sau: Ðạo Phật là con đường chơn chánh, hoàn
toàn sáng suốt đưa đến bản thể của sự vật, là lý tánh tuyệt đối, lìa tất cả hư
vọng phân biệt, mà các đấng giác ngộ hoàn toàn đã phát minh ra. Ðạo Phật gồm tất cả tự lợi và lợi tha,
tự giác, giác tha và có công hạnh độ mình, độ người được hoàn toàn thành tựu,
rốt ráo viên mãn.
B- Chánh Ðề
Ðạo Phật có từ lúc nào? có hai nghĩa: Ðứng về phương diện bản thể mà xét thì
Ðạo Phật có từ vô thỉ (nghĩa là không có đầu mối, không có giới hạn ở trong
thời gian). Vì Ðạo Phật là bản tánh sáng suốt của chúng sanh, nên có chúng sanh
là có Ðạo Phật; mà chúng sanh đã có từ vô thỉ thì Ðạo Phật cũng có từ vô thỉ. Ðứng về phương diện lịch sử và hạn
cuộc trong thế giới này mà nói, thì Ðạo Phật đã có từ 2501 (1) năm nay (tính đến năm 1957), trước
Thiên Chúa Giáo 544 năm.
Ai khai sáng ra Ðạo Phật?
Tín đồ Ðạo Phật cần phải
biết lịch sử đức Giáo Chủ của mình.
Dưới đây, xin kể sơ lược
những điểm chính của đời đức Giáo Chủ, người đã khai sáng ra Ðạo Phật, tức là
đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni,
nguyên là Thái Tử nước Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) xứ Trung Ấn Ðộ, Phụ hoàng tên
Tịnh Phạn Vương Ðầu Ðà Nà (Sudhodana); Mẫu hoàng tên là Ma Da (Maya). Họ Ngài
là Kiều Ðáp Ma, xưa dịch là Cù Ðàm, tên Ngài làTất Ðạt Ða (Shidartha). Còn chữ
Thích Ca (Sakya), Tàu dịch là Năng Nhơn: Năng là năng lực, Nhơn là từ bi. Mâu
Ni (Muni) nghĩa là Tịch Mặc: Tịch là yên lặng, không bị khổ vui làm động tâm;
Mặc là lặng lẽ, không bị phiền não khuấy rối, độ mình độ người, công đức đầy
đủ.
Lúc nhỏ Ngài có trí tuệ sáng
suốt và tài năng phi thường. Lớn lên nhìn thấy nhân sinh thống khổ, thế cuộc vô
thường, nên Ngài cương quyết xuất gia tu hành, tìm đường giải thoát cho mình và
cho người, ngõ hầu đưa tất cả chúng sanh lên bờ giác ngộ.
Sau sáu năm tu khổ hạnh
trong núi Tuyết (Hymalaya), Ngài thấy tu khổ hạnh ép xác như thế, không thể đạt
được chân lý, nên Ngài đi qua núi Koda, ngồi dưới gốc cây Bồ Ðề (Tất Bát La,
dịch âm theo tiếng Ấn Ðộ) và thề rằng: “Nếu ta không thành đạo, thì dù thịt nát
xương tan, ta cũng quyết không đứng dậy khỏi chỗ này”. Với chí hùng dũng cương
quyết ấy, sau 49 ngày tư duy, Ngài thấy rõ chân tướng của vũ trụ nhân sanh và
chứng đạo Bồ Ðề. Sau khi thành đạo, Ngài chu du khắp xứ, thuyết pháp độ sinh,
để chúng sanh chuyển mê thành ngộ, lìa khổ được vui. Suốt thời gian 49 năm, như
một vị lương y đại tài, xem bịnh cho thuốc, Ngài đã dắt dẫn chúng sanh lên
đường hạnh phúc và vạch cho mọi người con đường giác ngộ giải thoát.
Ðến 80 tuổi, Ngài nhập Niết
Bàn ở thành Câu Thi Na, trong rừng Ta La (Song Thọ). Lúc bấy giờ, nhằm ngày Rằm
tháng 2 âm lịch.
Giáo lý Ðạo Phật như thế
nào?
Giáo lý của đạo Phật gồm
trong 3 tạng kinh điển là Kinh, Luật, Luận.
1. Kinh: Kinh là những lời
của đức Phật Thích Ca đã nói khi còn tại thế, để dạy chúng sanh dứt trừ phiền
não và đạt đến quả Niết Bàn.
2. Luật: Luật là những giới
luật mà Phật đã chế ra cho các đệ tử, để các đệ tử răn chừa các điều dữ, tu tập
các điều lành, trau dồi thân tâm cho thanh tịnh.
3. Luận: Luận là những sách
phần nhiều do các đệ tử Phật làm ra để bàn giải rõ ràng nghĩa lý mầu nhiệm
trong kinh, luật hoặc quyết đoán tánh, tướng của các Pháp, phân biệt những lẽ
phải *chẳng củam chánh đạo và tà đạo, khiến cho người đời khỏi nhận lầm phải
trái, chánh tà.
Tam tạng kinh điển lại chia
làm hai loại là Ðại Thừa và Tiểu Thừa.
Chữ Thừa nghĩa là chở, có
chỗ cũng gọi là Thặng, nghĩa là cổ xe. Thừa hay Thặng đều có hàm ý nghĩa là:
Giáo lý của Phật có công năng như một chiếc xe, đưa chúng sanh từ nơi cõi trần
lao phiền não đến cảnh giới an vui thanh tịnh, từ biển khổ luân hồi đến Niết
Bàn, giải thoát.
Ðại thừa như là cỗ xe lớn,
có thể chở nhiều người trong một lúc; trái lại Tiểu Thừa như là một cỗ xe nhỏ,
chỉ chở mỗi lúc một vài người mà thôi.
Sở dĩ giáo lý Ðạo Phật chia
ra làm Ðại Thừa và Tiểu Thừa như thế, vì căn cơ và nguyện vọng chúng sanh không
đồng nhau. Những hạng người nào nhận thấy mình chỉ đủ sức để giải thoát cho
riêng phần mình mà thôi, như chiếc xe nhỏ chở được một vài người, thì theo giáo
lý Tiểu Thừa.
Những hạng người nào tự nhận
thấy mình có thể vừa giải thoát cho mình và cho người ra khỏi sanh tử luân hồi,
tự nguyện độ mình và người cùng đi đến Niết Bàn, như một cỗ xe lớn, cùng chở
trong một lúc được nhiều người, thì theo Ðại Thừa. Hạng người này rõ biết phiền
não, sanh tử như huyển hóa, nên không chịu sớm an vui ở quả vị cuối cùng của
mình, mà thường độ sanh không bao giờ biết mỏi mệt; và vì nhận thấy chúng sanh
còn đau khổ, thì mình chưa có thể an vui được.
Sự Truyền Bá Của Ðạo Phât:
Sau khi Phật Thích Ca nhập
diệt, hai vị đại đệ tử của Phật là Ngài Ca Diếp và Ngài A Nan thay Phật hoằng
truyền Phật pháp ở Ấn độ. Ðó là thời kỳ thứ nhứt. Thời kỳ thứ hai do các vị Tổ
sư Long Thọ, Mã Minh và Vô Trước lãnh đạo. Thời kỳ thứ ba do các vị Tổ sư Long
Trì, Thiện Vô Úy và Liên Hoa Sanh đảm nhiệm.
Từ Ấn Ðộ, Phật Giáo lan
truyền vào các nước lân cận, rồi toàn cõi Á Ðông, và cuối cùng toàn cả thế
giới. Sự truyền bá này đi theo hai hướng: một hướng về phương Bắc và một hướng
về phương Nam. (Xem Lịch sử truyền bá Phật Giáo khóa 5)
Về phương Bắc, thì gọi là
Bắc Phương hay là Bắc Tôn Phật Giáo, hay Ðại Thừa Phật Giáo, gồm có những nước:
Tây Tạng, Trung Hoa, Mông Cổ, Mãn Châu, Cao Ly, Nhật Bản, Việt Nam v.v..
Về phương Nam, thì gọi là
Nam Phương hay Nam tôn Phật Giáo, hay Tiểu Thừa Phật Giáo, hay Nguyên Thủy Phật
Giáo, gồm có những nước: Tích Lan, Miến Ðiện, Thái Lan, Ai Lao, Cao Miên, Nam
Dương v.v…
Nhưng hiện nhờ sự giao thông
tiện lợi và kinh điển được trao* dồi khắp các nước, nên sự chia rẽ giữa Bắc tôn
và Nam tôn không còn được rõ ràng như trước: trong Ðại Thừa vẫn còn có Tiểu
Thừa và trong Tiểu Thừa vẫn còn có Ðại Thừa.
Sự Lợi ích Của Ðạo Phật:
Mục đích của Ðạo Phật là đem
lại những kết quả đẹp đẽ sau này cho chúng sanh:
1. Chơn thường: Chúng sanh
trôi lăn, lặn hụp trong biển sanh tử luân hồi; chúng sanh sống trong cảnh vô
thường, khi trẻ khi già, khi lành khi ốm, khi sống khi chết…Ðạo Phật đem lại
cho người tu hành một quả vị là không bao giờ bị luật vô thường nói trên chi
phối.
2. Chơn lạc: Chúng sanh đang
sống trong cảnh giới tối tăm, buồn tủi, khổ đau; nếu có vui cũng chỉ vui được
trong chốc lát, như người khát, uống nước mặn vào, đỡ khát trong chốc lát, rồi
về sau lại càng khát hơn lúc đầu. Ðạo Phật có mục đích đem lại cho kẻ tu hành
một sự an vui toàn vẹn và bất tận.
3. Chơn ngã: Chúng sanh bị
không biết bao nhiêu nghịch cảnh ở chung quanh chi phối, ràng buộc, như kẻ tù
tội bị giam hãm trong ngục thất, không bao giờ được tự do hoạt động theo ý muốn
của mình. Ðạo Phật có mục đích làm cho những người tu hành được giải thoát hoàn
toàn ra ngoài những trói buộc nói trên, làm cho con người đầy đủ năng lực để
thực hiện ý nguyện tốt đẹp của mình, và sống một cuộc đời an nhiên tự tại.
4. Chơn tịnh: Chúng sanh
đang sống trong cảnh giới ô trọc, lấm láp trong bùn nhơ của cõi tục, từ trong
tâm hồn cho đến ngoài thể chất. Ðạo Phật có mục đích làm cho người tu hành gạn
lọc được bao nhiêu ô trọc của cõi đời, được sống một cuộc sống trong trắng,
tinh khiết, không vướng chút bận nhơ của trần tục.
Không phải chỉ trong vị lai,
Ðạo Phật mới đem lại lợi ích cho đời, ngay trong xã hội hiện tại, Ðạo Phật cũng
đem lại nhiều lợi ích quý báu:
- Ðạo Phật, nhờ tinh thần Từ
Bi, làm cho xã hội, nhân loại thương yêu nhau hơn.
- Ðạo Phật, nhờ ánh sáng Trí
Tuệ, làm cho xã hội, nhân loại bớt si mê lầm lạc, thấy được đâu là giá trị
thật, đâu là phỉnh phờ, giả dối.
- Ðạo Phật, nhờ tinh thần
Bình Ðẳng tuyệt đối, san bằng được những bất công của xã hội, nhân loại, và làm
cho cảnh giới Ta Bà này được sáng sủa, an vui hơn.
Ðó là những lợi ích mà Ðạo
Phật đem lại cho cõi đời.
C – Kết Luận
Những lợi ích nói trên quý
báu như thế, nhưng sẽ không bao giờ đến với chúng ta, nếu không học và hành
theo Phật.
1. Học Phật: Ðức Phật mặc dù
là một đấng xuất phàm, thông minh xuất thế, nhưng khi xuất gia Ngài cũng phải
học hỏi đêm ngày, hao tốn sức biết bao nhiêu, mới phát huy ra được cái giáo lý
nhiệm mầu để lại cho chúng ta. Vậy chúng ta muốn trở thành một Phật tử chân
chính thì trước tiên là phải học hỏi như Phật. Chúng ta không chỉ học trong
giáo lý của Ngài mà còn học qua đời sống, đức hạnh, hành vi của đời Ngài nữa.
2. Hành theo Phật: Nhưng học
mà không tập, không hành, thì chẳng khác gì cái đãy đựng sách, chữ nghĩa kinh
sách chất chứa thật nhiều, mà chẳng có ích lợi gì cả. Vậy nên học phải đi đôi
với hành. Chúng ta phải cố gắng thực hành cho được những điều đã học, làm cho
được những điều mình thấy là hay là phải. Phật đã làm gì, chúng ta phải tập làm
lại; Phật đã có những đức tánh Từ, Bi, Hỷ, Xả, Hoan Hỷ, Tinh Tấn, Thanh
Tịnh…chúng ta cũng cố gắng thực hiện cho được những đức tánh ấy.
Có như thế, mới khỏi hổ với
hai tiếng Phật tử và mới gọi là đền đáp trong muôn một, ân đức sâu dày của đức
Từ Phụ Thích Ca.
Hòa Thượng Thiện Hoa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét