Sự Truyền Thừa
Thiền Tông Ở Trung Hoa
1.- Ngài Bồ Ðề
Ðạt Ma, sơ Tổ của Thiền Tôn ở Trung Hoa.
Sau khi Ngài
Bát Nhã Ða La, vị Tổ 27 của Thiền Tôn ở Âún-Ðộ, ấn chứng cho làm tổ thứ 28,
Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma ở lại Ấn Ðộ ít lâu, rồi vâng lời phú chúc của sư phụ, Ngài
sanh Trung Hoa truyền đạo.
Ngài sang Trung
Hoa nhằm vào đời vua Lương Võ Ðế (528 dl.) trị vì, Ngài đến yết kiến vua và hy
vọng rằng vua sẽ giúp một tay đắc lực trong việc truyền bá Phật Giáo ở Trung
Hoa. Nhưng nhận thấy căn cơ của vua còn thấp thỏi và tín ngưỡng của vua chỉ có
tánh cách hình thức bề ngoài, nên tổ Ðạt Ma được giả từ vua đến tu tại chùa
Thiếu Lâm, ở Trung Sơn (đất Ngụy). Ngài ngồi xâymặt vào tường, tham thiên nhập
định trong chín năm, đợi thời cơ thuận tiện để truyền đạo ( xem quyển tổ Ðạt
Ma, do Hương Ðạo xuất bản). Chính lối tham thiền này mà đòi sau có tên là ”Ðạt
Ma tổ sư thiền ”. trong thời gian chín năm, Ngài tham thiền ở Thiếu Lâm, có
nhiều vị tu sĩ nghe danh Ngài , đến cầu đạo, nhưng Ngài không tiếp một ai. Ðó
cũng là một phương pháp dò xét căn cơ, tâm tánh của những người đến cầu đạo có
thiết tha với đạo hay không. Trong số những người đến cầu đạo này, chỉ có một
vị tỏ ra vô cùng kiên nhẫn nhiệt thành, dám hy sinh tất cả vì đạo. Ðó là Ngài
Thần Quang mà sau này được tổ Ðạt Ma ấn chứng cho làm tổ thứ hai của Thiền Tôn
ở Trung Hoa, và đổi pháp hiệu là Huệ Khả.
Dể làm kim chỉ
nam cho người tu thiền đơui sau, tổ Ðề Ðạt Ma còn truyền lạ bộ kinh Lăng Già
gồm 4 quyển, rất có giá trị.
2.- Ngài Huệ
Khả (Thần Quang) vị tổ Thiền Tôn thứ hai ở Trung Hoa.
Ngài Thần
Quang, nghe danh tổ Ðạt Ma đến cầu đạo. Nhưng tổ không tiếp.Ngài Thần Quang quỳ
đọei luôn mấy năm suốt mấy năm ở ngoài hiên chùa; nhưng tổ cũng không đoái hoài
đến không. Cuối cùng, để tỏ lòng chí thành tột mức của mình. Lúc bấy giờ tổ Ðạt
Ma mới xoay lại hỏi:
Ông đến đây cầu gì?
Ngài đáp:
Con cầu pháp an tâm.
Tổ bảo:
Ông đem tâm đến đây để ta an cho.
Ngài thưa:
Con tìm tâm không được.
Tổ dạy:
Ta đã an tâm cho ông rồi đó !
Ngài liền ngộ đạo. Tổ Ðạt Ma nói bài
kệ sau đây, trong khi truyền pháp cho Ngài Huệ Khả:
Nguyên văn:
Ngô bổn lai
tư độ
Truyền
pháp độ mê tình
Nhất hoa
khai ngũ diệp
Kết quả tự
nhiên thành.
Dịch nghĩa:
Ta đến
nước Trung Hoa
Truyền
pháp độ kẻ mê
Một bong
trổ năm cánh
Kết quả tự
nhiên thành.
3.- Ngài Tăng Xán, vị tổ thứ ba của
Thiền ở Trung Hoa.
Ngài Huệ Khả, sau một thời gian hành
đạo, lại ấn chứng cho Ngài Tăng xán làm vị Tổ thứ ba của thiền tôn ở Trung Hoa.
4.- Ngài Ðạo Tín, vị tổ thứ tư của
Thiền tổ ở Trung Hoa.
Tổ Tăng Xán truyền pháp cho Ngài Ðạo
Tín là vị tổ thứ tư. Sự truyền pháp ại chia ra làm hai dòng, do hai ngài sau
đây cầm đầu.
Ngài Hoằng Nhẫ ở núi Ðông Sơn, huyện
Hùynh Mai.
Ngài Pháp Dung ở non Ngưu Ðầu, cũng
gọi là “Ngưu Ðâu Thiền”.
5.- Ngài Hoằng Nhẫn,vị tổ thứ năm
của Thiền tôn ở Trung Hoa.
Chữ Hoằng Nhẫn có nghĩa là kiên nhẫn
tột độ, chịu đựng lâu dài. Hai chữ này có thể tóm tắt cho cả một câu chuyện
truyền pháp, bao hàm nhiều tính chất nhẫn nhục sau đây:
Một hôm Ngài Ðạo Tín, vị tổ thứ tư
Thiền tôn,thấy một ôn già đến cầu đạo, căn tánh thông lợi,có thể được truyền
thọ đạo pháp. Nhưng vì tuổi ông đã già, chẳng còn sống được lâu nên Tứ tổ dạy:
Ta đã già,
ông đã già ! Nếu truyền pháp cho ông ít ngày ta chết, rồi ông cũng chết, thì ai
ở lại mà truyền đạo? Vậy nếu ông có thhể đi đổi xác, ta sẽ truyền đạo cho !
Ông già thưa:
Nếu con đi
đổi xác chưa xong, mà lỡ Tổ được tịch trước, thì làm sao truyền đạo cho con
được?
Ðức Tứ tổ dạy:
Ta sẽ ở nán lại cỏi đời để chờ ông.
Vâng lời tổ dạy, ông giá đi vòng
theo dòng suối, thấy một cô gái gồi giặt bên bờ. Ông già hỏi:
Cô cho tôi ngủ nhờ một đêm, có được không?
Cô gái thưa:
ông hãy hỏi cha mẹ cháu.
Ông già nói tiếp:
Nếu cô bằng lòng thì tôi hỏi sau.
Cô gái trả lời:
Dạ bằng lòng
Ðược lời, ông già đi khuất vào rừng
rồi bỏ xác.
Còn cô giá kia, không có chồng mà từ
dó trở nên có mang. Bị cha mẹ đánh đuổi, cô gái phải bỏ nhà đi ăn xin vất vã,
nhẫn chịu không biết bao nhiêu điều khổ nhục. Sau khi sanh được đứa bé được vài
tuổi, cô bồng nó vào chùa. Ðứa bé vừa trông thấy Tứ tổ, mừng rỡ mỡ miệng cười.
Tổ nói:
-Ta đang trông đợi ngươi đây !
Tổ xin đứa bé để nuôi và đặt tên là
Hoằng Nhẫn. Ngài đặt tên ấy là có ý rằng: Tổ
đã nhẫn đợi, chưa chết để chờ truyền đạo, và bà mẹ đã chịu bao sự nhục nhã, oan
ức, khổ sở để sanh đứa bé.
Tổ Ðạo Tín nuôi đứa bé cho đến khi
khôn lớn ròi truyền pháp cho. Ngài Hoằng Nhẫn tức là vị tổ thứ năm của Thiền
Tôn. Sau khi truyền đạo xong, tứ tổ Ðạo Tín mới viên tịch
(xem Quy Nguyên Trực Chỉ âm nghĩa).
6.- Ngài Huệ Năng vị tổ thứ sáu của
Thiền Tôn ở Trung Hoa.
Ngài Huệ Năng lúc nhỏ nhà nghèo,
không biết chử, chuyên nghề đốn củi đem bán lấy tiền về nuôi mẹ già. Một hôm,
gánh củi đến bán cho một nhà phú ông. Trong khi chờ đọi Ngài lắng nge chủ nhà
tụng kinh Kim Cang. Ðến câu ”ưng vô sở trụ nhi sanh kì tâm ”, Ngài liền ngộ
đạo.
Ðợi cho chủ nhà tụng kinh xong, Ngài
trầm trộ khên ngợi và hỏi rằng:
Chẳng hay
ông tụng kinh gì mà hay quá vậy?
Tôi cũng
mốn thọ trì tụng đọc như ông.
Phú ông mách cho Ngài:
Tại núi
Ðông Sơn, huyện Huỳnh Mai có đức Ngủ tổ, thường truyền Phật độ người, ông nên
đến đó mà mà cầu đạo.
- Ngài trả lời:
Tôi cũng
muốn như thế lắm; ngặt còn mẹ già không ai nuôi dưỡng nên không biết liệu làm
sao !
- Phú ông bảo:
Nếu ông
thật quyết chí xuất gia cầu đạo, thì hãy về cố gắng đốn củi tật nhiều, đem đến
đây tôi sẽ đổi vàng cho. Ông lấy vàng ấy để lại nuôi mẹ, rồi đi xuất gia.
- Ngài Huệ Năng mừng rỡ trở về, ngày
đêm cố gắng đốn thật nhiều củi, đem đến bán cho Phú ông, và sau khi thu xếp
việc nhà xong xuôi, Ngài đến huyện Huỳnh Mai cầu bái yết đức Ngũ tổ Hoằng Nhẫn.
- Ngũ tổ thấy Ngài hỏi:
Ông ở đâu đến và đến đây để cầu việc gì?
- Ngài đáp:
Con từ phương Nam đến đây, để cầu làm Phật.
Ngũ tổ thấy hình thù Ngài kì dị,
nhưng căn tánh lại thông lợi phi thường, có thể nối Tổ vị sau này. Ngài không
muốn trong chúng biết, nên giả quở to rằng:
Ông là người mọi rợ phương Nam mà cầu thành Phật làm gì?
- Ngài Huệ Năng trả lời:
Bạch tổ sư
! Thân người tuy có phân chia kẻ Nam người Bắc, chứ Phật tánh vẫn bình đẳng,
không phân biệt Nam, Bắc.
Ngũ tổ sợ trong công chúng để ý, lộ
bí mật nên chẳng hỏi han gì nữa, mà truyền cho Ngài xuống nhà trù công giã gạo
Trải qua một thời gian lâu, một hôm
Ngũ tổ thấy mình được già, muốn chọn người truyền Tổ vị, nên tuyên bố rằng:
Nếu ai làm kệ dâng lên, được tỏ ngộ
thiền cơ, thì sẽ ấn chứng và truyền pháp cho làm Tổ thứ sáu.
Tin này được truyền ra rất mau
chóng.
Trong chúng mọi người đều nô nức,
xôn xao bàn tán:
Trong chúng chỉ có Thưởng tọa Thần
Tú là thông minh, học nhiều và tài giỏi hơn hết, chắc thế nào Thượng tọa củng
được truyền tổ vị.
Nhưng Thượng tọa Thần Tú lại không
dám tin chắc mình sẽ được cái may mắn ấy, nên không dám trực tiếp đem dâng bài
kệ của mình cho Ngủ Tổ. Thượng tọa đợi đêm khuya thanh vắng, trong chúng đều
ngủ cả, mới cầm đèn hồi hợp đến víwt một bài kệ trên vách phía đông lang và
không dám ký tên. Thượng tọa Thần Tú nghĩ thầm:” Nếu nhờ công phu tu hành bấy
lâu mà bài kệ này được trúng ý Tổ, thì đây là một diễm phúc lớn lao vô cùng cho
ta. Lúc bấy giờ ta sẽ ra bái nhận, bằng không thì ta sẽ làm thinh như không ai
biết”.
Nguyên văn:
Thân thị
Bồ-Ðề thọ
Tâm như
minh cảnh đài
Thời thời
thường phất thức
Dật sử nhá
trần ai.
Dịch nghĩa:
Thân là
cây Bồ-Ðề
Tâm như
đài gương sáng
Thường
ngày hằng quét lau
Chớ cho
dính bụi trần.
Sáng nay,tăng chúng qua lại thấy bài
kệ xuất hiểntên vách đông lang, ai nấy đều trầm trồ kính phục:
-Ðây rồi! Kế tổ vị đây rồi!Nếu không
phải Thượng tọa Thần Tú thì còn ai nữa!nghe tăng chúng trầm trồ khen ngợi, nô
nức kéo nhau đến xem bài kệ, Ngài Huệ Năng củng từ nhà trù theo chúng lên xem.
Sau khi xem xong bài kệ, Ngài Huệ Năng nói:
- Còn đứng ngoài cửa rào.
Kẻ qua người lại nghe Ngài nói thế,
bĩu môi khinh bỉ:
-Ðã dốt nát không biết một chữ thế kia, mà dám chê là còn
đứng ngoài cửa rào!
Ngài Huệ Năng ôn tồn bảo:
-Tôi củng có một bài kệ, xin các Ngài viết lên vách giùm
tôi, vì tôi không biết chữ.
Một người liền hoan hỷ viết hộ. Huệ
Năng đọc bài kệ sau đây:
Nguyên văn:
Bồ-Ðề bổn
vô thọ
Tâm phi
minh cảnh đài
Bổn lai vô
nhứt vật
Hà xứ nhá
trần ai?
Dịch nghĩa:
Bồ-Ðề vốn
không cây
Tâm không
phải đài gương
Xưa nay
không một vật
Chỗ nào
dính bụi trần?
Nghe xong bài kệ, mọi người dều kinh
ngạc: Không ngờ một người dốt nát như thếmà lại làm được bài kệ xuất sắc thâm
diệu như thế?
Ngũ Tổ thấy trong chúng xôn xao bàn
tán, muốn dánh tan dư luận có thể nguy hại cho Ngài Huệ Năng, nên bảo trong
chúng truyền đọcbài kệ của Thượng tọa Thần Tú, mà bôi bỏ bài kệ của Ngài Huệ
Năng.
Một buổi chiều, Ngủ Tổ một mình đi
xuống nhà trù, đến chỗ Ngài Huệ Năng giã gạo và hỏi rằng:
- Gạo đã trắng chưa? (mật ý hỏi: Ðạo đã ngộ chưa? )
Ngài Huệ Năng đáp:
-Bạch Tổ,
gạo con giả đã trắng rồi mà còn thiếu người sàng ( mật ý Ngài muốn nói:Ðạo con
đã ngộ rồi mà còn thiếu người truyền ).
Ngũ Tổ nghe xong, lấy cây gậy gõ lên
dầu chày ba cái rồi đi lên ( Ngủ Tỏ bảo Huệ Năng canh ba vào phòng ).Ngài Huệ
Năng vào phòng Ngủ tổ. Ngài được Ngủ Tổ ấn chứng và truyền y bát cho Ngài làm
tỏ thứ sáu, và dạy Ngài phải đi về phương nam ngay đêm hôm ấy, để hoằng hóa đạo
pháp ( Xem quyển Lục Tổ Huệ Năng).
Từ đó, Ngài Lục Tổ Huệ Năng truyền
pháp ở phương Nam, còn Ngài Thần Tú thì truyền pháp ở phương Bắc. Phương Bắc
chủ trương về Tiệm tu, nên gọ là “Nam đốn, Bắc tiệm” hay” Nam Năng Bắc Tú”.
Sau đây là bản lược đồ về sáu vị tỏ
thiền tôn ở Trung Hoa:
-
Sơ tổ :
Ngài Bồ-Ðề Ðạt -Ma
-
Nhị tổ :
Ngài Huệ -Khả (Thần Quang)
-
Tam tổ
:Ngài Tăng- Xán
-
Tứ tổ
:Ngài Ðạo Tín
-
Ngũ tổ
:Ngài Hoằng Nhẫn
-
Ngài Ngưu
Ðầu thiền Sư
-
Lục tổ
:Ngài Huệ Năng
-
Ngài Thần
Tú.
Từ Ngài lục tổ Huệ Năng về sau,
không còn cái lệ truyền y bát nữa, và các tổ không còn ấn chứng rieng cho một
vị nào. Do đó trong Thiền thiền Tôn không còn truyền thống duy nhất nữa, mà lại
chia ra làm hai phái và năm dòng sau đây:
Hai Phái Và Năm Dòng Thiền
Ngài Huệ Năng từ khi lên làm lục tổ
đã truyền pháp cho rất nhiều đệ tử. Trong số các đệ tử, nỗi tiếng hơn hết là
Ngài Hoài NHượng ở nam nhạc và Ngài Hành Tú ở Thanh Nguyên (xêm Pháp Bảo Ðàn
Kinh). Hai Ngài này là mở đầu cho hai phái Thiền Tôn là phái Nam nhạc và phái THanh
Nguyên.
Phái Nam nhạc về sau lại chia làm
hai dòng là: Lâm tế và Quy ngưởng.
Phái Thanh Nguyên lại chia làm ba
dòng là: Tào Ðộng, Vân Môn và Pháp Nhãn.
Sau đây là lược đồ của hai phái và
năm dòng Thiền Tôn ở Trung Hoa.
I.-Ngài Hoài Nhượng ( Ở Nam nhạc )
1.-Lâm tế
2.-Quy Ngưởng
II.-Ngài Hành Tú (Ở Thanh Nguyên) 3.-Tào Ðộng
4.-Vân Môn
5.-Pháp Môn
1.-Dòng Lâm Tế
a)Sự truyền thừa của dòng Lâm Tế, tuần tự như sau:
-Hoài Nhượng Thiền Sư
-Ðạo Nhứt Thiền Sư(họ Mã, tục gọi là
Mã Tổ)
-Bách Trượng Thiền Sư(Hoài Hải)
-Huỳnh Nghiệt Thiền Sư (Hỳ Vân)- Lâm
Tế Nghĩa Hùyen.
b.-Sự truyền pháp (thiền cơ) của tôn
Lâm Tế:
Như chúng tôi đã nói ở phần đầu của
tập sách này, sự truyền pháp của phái Thiền Tôn khó mà hiểu được, đói với người
thường. Chẳng hạn như trong phái Lâm tế, sự truyền pháp chỉ dùng thiền trượng
đánh và hết to lên, mà làm cho thiền giả được ngộ đạo. Cái lối khai ngộ này
khởi đầu từ Ngài Huỳnh Nghiệt Thiền-sư:
để cầu giác ngộ, một hôm Ngài Lâm tế
hỏi ngài Huỳnh Nghiệt:
-Sao gọi là đại ý Phật pháp?
Ngài Huỳnh Nghiệt liền lấy thiền
trượng (gậy hoặc roi) đánh Ngài Lâm tế một cái. Ba lần Ngài Lâm tế hỏi, thì ba
lần được dánh như thế.
Ngài Lâm tế lầy làm bối rối, không
hiểu ý nghĩa làm sao, nên đến tham học với Ngài Ðại Ngu Thiền sư, nhờ thế Ngài
Lâm tế mới ngộ được tôn chỉ của Ngài Huỳnh Nghiệt.
Từ đó về sau, dòng Lâm tế mỗi khi
khai ngộ cho đệ tử, đều dùng phương pháp đánh và hét ấy.
Ngài Lâm tế nói:”Có khi hét một tiếng như bữu kiếm kim cương
vương , có khi hét một tiéng như sư tử giậm chân , có khi hét một tiếng như quơ
cây nơi bóng cỏ, có khi hét một tiếng, không khởi cái dụng của tiếng hét
“.bởi thế nên người đời gọi là” Lâm tế tứ yết “
(bốn tiếng hét của Lâm tế).
Dòng Lâm tế sau lại chia làm hai
nhánh:Dương kỵ và Huỳnh long. Từ đời Tống về sau, dòng Lâm tế rất thạnh hành.
Cho đến ngày nay về Thiền tôn trong các Ðại tòng lâm, phần nhiều là dòng Lâm
tế.
2.-Dòng Quy Ngưỡng
Tổ Bách Trượng Thiền sư truyền cho
Ngài Linh Hựu Thiền sư ở núi Quy sơn đất Ðàm châu. Ngài Linh Hựu truyền cho
Ngài Quy Ngưỡng Huệ Tịch.
Ngài Quy Ngưỡng là một vị Thiền sư
đắc đạo, sự mầu nhiệm của Ngài , không ai có thể lường được . ảnh hưởng của
Ngài rất lớn, vì thế cho nên người ta lấy tên Ngài để đặt tên cho cả một dòng
Thiền tôn. sự truyền đạo của Ngài củng rất kỳ lạ. Một khi có ai đến hỏi đàothi
Ngài Quy Ngưỡng chỉ vẽ tướng trâu, hoặc vẽtướng người , tướng Phật hay chữ Vạn,
mà người được ngộ đạo.
3.-Dòng Tào Ðộng:
Sự truyền thừa của tôn này, thứ tự
như sau:
-
Ngài Thanh
Nguyên Thiền Sư
-
Ngài Hy
Thiên Thiền sư, tức Ngài Thạch Ðầu Hòa Thượng
-
Ngài Dược
Sơn Thiền Sư
-
Ngài Vân
Nham Thiền Sư
-
Ngài Lương
Giới Thiền Sư ở núi Ðông Sơn
-
Ngài Bổn
Tịch Thiền Sư ở núi Tào Sơn
Ngài Vân Nham Thiền Sư đã dùng pháp
Bửu cảnh tam muội, truyền cho Ngài Lương Giới (Ðông Sơn); Ngài lương giới cũng
dùng pháp này để truyền cho Ngài Bửu Tịch (Tào Sơn).
4.- Dòng Vân-Môn:
Sự truyền thừa của tôn này, thứ tự
như sau:
a).Ngài Thạch-Ðầu Thiền sư
b).Ngài Thiên-Hoàng.
c).Ngài Long-Ðàm.
d).Ngài Ðức-sơn.
đ).Ngài Tuyết-phong.
e).Ngài Vân-Uyển Thiền-sư ở đất Thiền-châu, Vân-môn.
Cách truyền pháp của Ngài Vân-Uyển
(Vân-môn) cũng rất kỳ lạ, ít ai hiểu được nghĩa lý: ai đến hỏi đạo, thì Ngài
chỉ nói một chữ ”Dám”. Nếu người cầu đạo ngần-ngại không hiểu, thì Ngài nói
thêm chữ ”Di”. Vì Ngài chỉ đáp có một chữ như thế cho người cầu đạo, nên người
đời gọi pháp quán của Ngài là ” Nhứt tự quán ” ( Quán sát cái lý trong một chữ
Dám hay chữ Di ”.
5.- Dòng Pháp-nhãn :
Sự truyền thừa của tôn này, thứ tự
như sau:
a). Ngài Tuyết-phong Thiền-sư.
b). Ngài Huyền-sang Thiền-sư.
c). Ngài Xa-hán Thiền-sư.
d). Ngài Vân-ích Thiền-sư.
Phương pháp khai thị cho người đến
cầu đạo của Ngài Vân-ích Thiền-sư là đúng sáu tướng trong kinh Hoa-Nghiêm sau
đây:
- Tổng tướng: Tức là muốn nói đến
chơn-như nhứt tâm.
- Biệt tướng: Tức là các duyên sanh
khởi từ chơn-như nhứt tâm.
- Ðồng tướng: Các pháp đều đồng như
nhau.
- Dị tướng: Tùy theo mỗi tướng không
bình đẳng.
- Thành tướng: Dựng lập ra
cảnh-giới.
- Hoại tướng: Vị trí không đồng tức
là hoại tướng.
Thiền
Tông Ở Việt Nam
Như chúng ta đã biết, Phật Giáo
Việt-Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm của Phật Giáo Trung Hoa. Cho nên, nếu ở Trung
Hoa Thiền tôn được thịnh hành truyền bá, thì ở Việt-Nam Thiền tôn củng được xem
như là một phái chính củ đạo Phật . đấy cũng là một lẽ dĩ nhiên, không có gì là
khó hiểu.
Phật giáo truyền vào Việt-Nam từ thế
kỷ thứ II tây lịch, do các vị danh Tăng người Ấn Ðộ và Trung Hoa, như các Ngài
Ma-Ha-Ha-KỳVực, Ngài Khương-Tăng-Hội(người Ấn Ðộ ), Ngài Mâu-Bác(người Trung
Hoa). Trong thời gian xa xưa này, chúng ta không thể biết được các vị này thuộc
tôn phái nào, và truyền vào Việt-Nam giáo lý gì. Nhưng chúng ta có thể biết
chắc là không phải phái Thiền tôn. vì Thiền tôn ở Việt-Nam là do từ Trung
Hoatruyền sang. Mà Thiền tôn ở Trung Hoathì phải đợi đếnđầu thế kỷ thứ VI, dưới
đời Lương-Võ-Ðế (528), tổ Bồ-Ðề -Ðạt-Ma mới đưa vào. vậy thì nhất địnhlà Thiền
tôn ở Việt-Nam chỉ có thể xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ VI Tây lịch. Sự phỏng
đoán này đã được lịch sử truyền giáo ở Việt-Nam chứng minh. Vào năm 580 ( cuối
thế kỷ thứ VI ), Ngài Tỳ-Nhiều-Ða-Lưu-Chi, làn đầu tiên truyền thiền tôn vào
Việt-Nam , và là vị sơ tổ về Thiền tôn Việt-Nam . sau Ngài Tỳ-Nhiều-Lưu-chi
củng có nhiều vị danh tăng khácđem truyền Thiền tôn vào Việt-Nam , và nhờ đó,
Việt-Nam cũng có nhiều môn phái Thiền tôn như ở Trung Hoa. Một diều đặc biệt,
đáng hãnh diện cho Phật tử Việt-Nam là ngoài những phái Thiền tôn ở Trung Hoa
truyền sang, ngay ở nước ta, cũng có một phái Thiền tôn do một vị vua sáng lập,
đó là phái Trúc Lâm mà vị sơ tổ là vua Trần Nhân T@´n.
Dưới đây, chúng ta tuần tự nói về
các môn phái Thiền tôn ấy:
1.-Phái Tỳ-Nhiều-Ða-Lưu-Chi;
a )Vị Sơ tổ Thiền tôn ở Việt-Nam .
Ngài Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi, người Ấn Ðộ
là đệ tử Ngài Tăng-Xán (Tam tổ thiền tôn).
Lầìn đầu tiên gặp tổ Tăng Xán ở núi
Tư Không, thấy phong mạo của tổ khác thường, Ngài Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi sanh lòng
kính phục, chắp tay đảnh lễ. Ngài đãnh lễ ba lần mà tổ vẫn ngồi lim dim đôi ắt
chứ không nói gì hết (thiền cơ) .Ngài đứng yên nghĩ ngợi một hồi, bỗng thấy
trong người đổi khác, nhu tỏ ngộ được điều gì. Ngài liền sụp xuống lạy ba
lạy.Tổ cũng chỉ gật đầu ba cái mà thôi (thiền cơ). Sau buổi gặp gỡ đầu tiên ấy,
Ngài trở thành một trong những đệ tử xúat sắc nhất của tổ tăng Xán.
Về sau, Tổ dạy Ngài sang phương nam
để truyền đaọ, Ngài vâng lệnh sang Việt-Nam vào khoảng cuối thế kỷ thứ VI, trụ
trì tại chùa Pháp vân ở tỉnh Hà Ðông.
Khi sắp thị tịch, Ngài gọi đệ tử là
Ngài Pháp Hiển vào phòng phú chúc rằng:
” Tâm ấn của Phật , không có thể mập
mờ được , Tâm ấn viên mãn như thái hư không thừa, không thiếu, không đến không
đi không được , không mất, không phải đông nhất, cũng không phải sai biệt,
không thường cũng không đoạn, không sanh cũng không diệt không xa xách cũng
không phải không xa xách. Chỉ vìđối với vọng nên giả đặt ra tên ấy (Tâm ấn) mà
thôi”.
Chư Phật trong ba đời do đó (tâm-ấn)
mà được đạo. Lịch đại Tổ-sư cũng do đó mà chứng ngộ. Ta đây cũng vậy, mà ông
cũng thế, cho đến các loại hữu tình vô tình cũng đều như thế cả.
Khi đệ tam Tổ Tăng-xán ấn chứng
”tâm-ấn” cho ta, đã bảo rằng: ”Ông nên sang phương Nam hoằng đạo, chớ ở đây làm
gì”.
Do đó, ta đi trải qua bao nhiêu chỗ
mới đến đây. Ta nay được gặp ông, thật đúng như lời huyền-ký ấy. Vậy ông nên
nhớ kỹ lời ta.
Giờ đây nhằm lúc ta đi rồi !”
Dạy xong, Tổ Tỳ Ni-Ðà-Lưu-Chi chắp
tay ngồi yên lặng mà tịch diệt. Ðệ-tử trà-tỳ (thiêu) rồi thu xá lợi, xây tháp
để thờ.
Về sau, vua Lý-Thái-Tôn có bài kệ
truy-tán Ngài như sau:
Nguyên văn:
Sáng tự
lai Nam Quốc
Văn quân
cữu tập thiền
Ưĩng khai
chi Phật tín
Viễn hợp
nhất tâm nguyên
Hạo hạo
Lăng-già nguyệt
Phân phân
Bát-nhã liên
Hà thời
hạnh tương kiến
Tương dữ
thoại trùng thuyền.
Dịch nghĩa:
Mở lối qua
người Việt
Nghe Ngài
thông đạo thiền
Nguồn tâm
thông một mạch
Cõi Phật
rộng quanh miền
Lăng-già
ngời bóng nguyệt
Bát-nhã
nứt mùi sen
Biết bao
giờ được gặp
Ðàm-đạo lẽ
thâm-huyền.
b). Ngài Pháp-hiển Thiền-sư, vị Tổ
thừ hai của Thiền-tôn Việt-Nam:
Sau khi Tổ Tỳ Ni-Ðà-Lưu-Chi tịch,
Ngài Pháp-hiển là vị Tổ thứ hai của phái Thiền-tôn Tỳ Ni-Ðà-Lưu-Chi. Ngài họ
Ðỗ, quê ở Quận Chu-diên (Sơn tây bây giờ). Khi tới chùa Pháp-Vân, Tổ Tỳ Ni-Ðà-Lưu-Chi
thấy Ngài, thì nhìn kỹ vào mặt và hỏi:
- Chú họ gì?
Ngài Pháp-hiển hỏi lại:
-Hòa-thượng họ gì?
Tổ lại hỏi:
-Chú không có họ à?
Ngài trã lời:
-Sao lại không có ! Nhưng đố Hòa-thượng
biết?
Tổ quát lên:
-Biết để làm gì?
Ngài Pháp-Hiển
chợt ngộ ý Tổ Tỳ Ni-Ðà-Lưu-Chi (thiền cơ) liền sụp xuống lạy, xin theo làm
đệ-tử và sau được truyền tâm-ấn.
Ðược ít lâu,
sau khi Tổ tịch, Ngài vào núi Từ-sơn tu thiền-định, những loại cầm thú thường
quấn quýt chung-quanh. Người đời thấy thế càng lấy làm lạ và kính mộ. Ðệ-tử tìm
đến học đạo rất đông. Thiền-tôn ở trong thời kỳ này có thể nói là thạnh nhất.
Ðó cũng nhờ công đức hoằng-hóa của Ngài Tỳ Ni-Ðà-Lưu-Chi và Ngài Pháp-hiển. Về
sau trong pháp nẫycung có nhiều vị thiền-sư xuất-sắc như Ngài Pháp-thuận,
Vạn-hạnh .v.v…
2.- Phái Vô-Ngôn-Thông:
a). Vị Sư-tổ của Pháp Thiền-tôn thứ
hai ở Việt-Nam:
Ngài họ Tịnh, quê ở Quảng-châu, xuất
gia ở chùa Song-Lâm (Triết-giang bây giờ). Tính Ngài điềm đạm ít nói, nhưng sự
lý gì cũng thông hiểu, nên người đời đặt danh hiệu Ngài là Vô Ngôn Thông. Ngài
là đệ tử của Bách Trượng thiền sư (đệ tử của Mã Tổ).
Khi Ngài mới đến yết kiến Bách
Trượng Thiền sư gặp lúc thiền sư đang dạy chúng tăng học. Một vị tăng hỏi Bách
Trượng thiền sư rằng:
Thế nào là pháp môn đốn ngộ của phái
Ðại-thừa?
Bách Trượng thiền sư dạy rằng:
-Tâm địa
nhược thông, huệ nhật tự chiếu (nêu tâm địa được thông thì mặt trời huệ tự
nhiên chiếu sáng).
Nghe được câu ấy, tự nhiên Ngài Vô
Ngôn Thông ngộ đạo. Năm 820, Ngài qua Việt-Nam tu tại chùa Kiến Sơ, làng Phù
Ðổng(Bắc Ninh), Ngài ngồi vây mặt vào vách trọn nhày tham thiền nhập định. Ngài
tu như thế mấy năm không ai biết, chỉ trừ vị sư ở chùa ấy là Cảm Thành thiền
sư, biết Ngài là bậc cao tăng trong Phật Thiền tôn, nên tôn thờ Ngài làm Thầy.
Trước khi tịch Ngài gọi Cảm Thành
thiền sư mà bảo:
-Ngày xưa tổ sư Nam Nhạc, khi sắp tịch có dặn lại bài kệ
rằng:
Nhất thế
chư pháp, giai tùng tâm sanh
Tâm vô sở
sanh, pháp vô sở trú
Nhược đạt
tâm địa, sở trú vô ngại
Phi ngộ
thượng căn, thận vật kinh hứa.
Nghĩa là: Hết thải các pháp, đều tự tâm sanh;tâm nếu không
sanh, pháp không chổ trú. Nếu hiểu được vấn đề ấy thì làm việc gì cũng không
trở ngại, cái tâm pháp ấy nếu không gặp được bậc tâm căn, chớ nên truyền bậy.”
”Ðó là lời dặn của người xưa nay ta cũng dặn lại câu ấy”.
Nói xong Ngài chắp tay mà tịch.
b) Vị Nhị tổ của phái Vô Ngôn Thông:
cảm Thành thiền sư: Thiền sư quê ở
huyện Tiên Du (Bắc Ninh) trụ trì tại chùa Kiến Sơn (Bắc Ninh).
Khi Ngài Vô Ngôn Thông vân du qua
đấy, thấy Ngài có đủ tư cách để truyền mối đạo, nên ở lại. Và Ngài Cảm Thành cũng
nhận thấy ở Ngài Vô Ngôn Thông một vị thiền sư đắc đạo, nên tôn làm thầy, sớm
tối hầu hạ không hề trễ nải. Hai thầy trò rất mến nhau, do đoa Ngài Vô Ngôn
Thông mới đặt cho Ngài đạo hiệu là Ngài Cảm Thành thật xứng đáng là người nối
chí của Ngài Vô Ngôn Thông. Một hôm có đệ tử hỏi Ngài :
-Thế nào là Phật?
Ngài trả lời:
-Chổ nào
cũng là Phật cả.
Vị đệ tử lại hỏi:
-Thế nào là tâm của Phật?
Ngài trả lời:
-Không hề che đậy chổ nào.
Ðây cũng là một câu chuyện nhỏ,
nhưng nói lên được cái truyền thọ tâm pháp đặc biệt, tuy giản ước mà bao hàm
nhiều ý nghĩa vô cùng.
Ngài Cảm Thành không bệnh mà tịch,
và truyền tâm pháp cho Thiện Hội thiền sư.
c) Vị tam tổ của phái Vô Ngôn Thông:
Ngài Thiện Hội thiền sư: Ngài Thiện
Hội quê ở Siêu Loại (Bắc Ninh). Ngài là đệ tử của Cảm Thành thiền sư, hầu thầy
đã hơn 10 năm, một hôm Ngài vào phòng hỏi thầy:
Trong kinh Phật có dạy: ” Ðức Thích
Ca Như Lai từng tu hành trải vô số kiếp mới thành Phật, thế mà nay thầy cứ dạy
rằng ” tâm tức là Phật, Phật tức là tâm” là nghĩa làm sao? Thật đệ tử không
hiểu xin thầy dạy rỏ cho.
Cảm Thành thiền sư nói:
-Ngươi nói trong kinh Phật nói thế là ai nói đó?
-Vậy lời ấy không phải là Phật thuyết sao?
-Lời ấy
phải đâu là Phật thuyết. Kinh Văn Thù Phật có dạy: ” Ta trú ở thế gian để dạy
chúng sanh 49 năm, chưa đặt ra một câu bằng văn tự để nói với ai bao giờ !” Vì
theo chánh đạo, nếu ta lấy văn tự để làm bằng chứng để cầu đạo, ấy là nệ; lấy
sự khổ hạnh để cầu Phật, ấy là mê; lìa tâm ra mà cầu Phật, ấy là ngoại đạo; mà
cố chấp cái tâm ấy là Phật, củng lại là ma vậy.
-Nếu bảo
tâm ấy tức là Phật, thì trong tâm ấy cái gì là Phật, cái gì không phải là Phật?
-Ngày xua
có người hỏi mã tổ rằng: ” Nếu bảo tâm ấy tức là Phật, thì trong tâm ấy cái gì
là Phật?” Mã Tổ trả lời: ” Thế ông ngờ trong tâm ấy, cái gì không phải là Phật,
hãy chỉ vào ấy cho ta xem !”. người ấy không chỉ được . Mã Tổ lại tiếp: ” Ðạt
được thì khắp mọi nơi chổ nào cũng là Phật, mà không đạt được thì cứ sai lầm đi
mãi mãi”. Thế là chỉ một lời nói nó che đi, mà thành ra sai lầm đó thôi. Người
ta hiểu chưa?
Ngài Thiện Hội trả lời:
-Nếu như vậy đệ tử hiểu rồi.
-Người hiểu thế nào?
-Ðệ tử hiểu rằng khắp hết mọi nơi, chổ nào củng là tâm Phật
cả.
Nói xong Thiện Hội thiền sư súp
xuống lạy. Ngài Cảm Thành nói:
-Thế là người hiểu tới nơi rồi đó.
Do sự lãnh hội mau chóng đó ma Ngài
Cảm Thành mới đặt cho đệ tử mình đạo hiệu Thiện Hội, nghĩa là ”khéo hiểu”.
Trên đây là một vài câu chuyện đến
đốn ngộ mà chúng ta thường thấy trong các vị thuộc phái Thiền tôn.
Sứ truyền pháp từ thầy đến trò trong
phái Vô Ngôn Thông diễn ra như thế được 15 đời. Ðến đời cư sỉ Ứng Thuận(1221)
là cuối cùng.
3.- Phái Thảo Ðường:
Năm kỷ dậu (1069) vua Lý Thánh Tôn
đi đánh Chiêm Thành về, có bắt được vua nước ấy là Chế Cũ và rất nhiều thường
dân và binh lính. Số binh lính và thường dân này được phân phát cho các quan
trong triều đình để làm quân hầu.trong số quan triều có một vị Tăng Lục. Một
hôm vị này đi vắng về thấy bản ”Ngữ lục”của mình bị một tù binh sữa chưa lại
cả. Hỏi ra thì mới biết đó là một vị thiền sư người Trung Hoa, theo tầy qua
Chiêm Thành, chẳng may bị bắt làm tù binh. Vị thiền sư ấy là Ngài Thảo Ðường,
đệ tử của Ngài Tuyết Ðậu Minh Giác ở Trung Hoa.
Khi biết tung tích của Thảo Ðường
thiền sư, vua Thánh Tôn liền sắc phong cho Ngài làm Quốc sư. Ngài Thảo Ðường
lập đàn khai giảng ở chùa Khai Quốc trong thành Thăng Long. Ðệ tử đến học rất
đông. Ngài Thảo Ðường lập ra một phái Thiền Tôn thứ ba ở Việt-Nam . Phái Thảo
Ðường truyền xuống được năm đời, đắc đạo cả thầy được mười chín vị.
4.- Phái Trúc Lâm:
Ðệ nhất tổ của phái Trúc Lâm tức là
vua Trần Nhân Tôn (1278-1308). Ngài mộ đạo khi còn nhỏ. Năm 16 tuổi được lập
làm Hoàng Thái tử, Ngài cố nhường lại cho em nhưng không được, nên trèo thành
trốn đi, định vào tu ở núi Yên Tử. Nhưng Ngài mới đi nữa đường thì bại lộ tung
tích, bị vua cha sai quan đi bắt về. Ngài phải miễn cưỡng trở về. Sau Ngài lên
làm vua, trở thành một vị anh quân và giử vững nền độc lập nước nhà trước sự
xâm lăng ồ ạt, nhưng vô hiệu quả của quân Nguyên. Sau khi đuổi được giặc
nguyên, Ngài truyền ngôi lại cho con là Anh Tôn, và vào tu ở núi Yên Tử, thực
hiện chí nguyện thuở thiếu thời của mình. Ngài lấy hiệu là ”Hương Vân Ðại Ðầu
Ðà ” lập trường giảng pháp, môn đồ tìm đến tu học kể có hàng vạn người. Ngài
thường đi khắp nơi để giảng đạo và phát thuốc. Ngài tịch một cách ất bình tĩnh
vào lúc 51 tuổi.
Trong các phái Thiền tôn ở Việt-Nam,
chỉ có phái Trúc Lâm là phát tích tại đất nước Việt. Trong phái này, cũng có
nhiều vị thiền sư có tiếng tăm như Ngài Pháp Loa tôn sư, Ngài Huyền Quang tôn
sư …
5.- Phái Lâm Tế:
Phái Lâm Tế do Ngài Nguyên Thiều
khai sáng tại Trung Việt. Ngài họ Tạ, quê ở Quảng Châu (Trung Hoa). Ngài đi
theo tàu buôn qua An Nam, trú ở phủ Qui Ninh (Bình Ðịnh) lập chùa Thập Tháp Di
Ðà, Mở trường dạy học. Sau Ngài ra thuận hóa lập chùa Hà Trung, rồi lên Xuân Kinh
(Huế) lập chùa Quốc Ân và dựng tháp Phổ Ðồng.
Sau Ngài phụng mạng đức Anh Tôn (
Nguyễn Phúc Tráng 1687-1691) trở về Trung Quốc, tìm mời các vị danh tăng và
cung thỉnh pháp tượng, pháp khí. Ngài về Quảng Ðông mời được Hòa Thượng Thạch
Liêm và các danh tăng khác, cùng thỉnh được nhiều kinh điển, tượng, pháp khí
trở về Nam. Chúc Nguyễn liền sắc mở đàn truyền giới rất long trọng tại chùa
Thiên Mụ. Sau đó, chúa Nguyễn sắc ban Ngài chức trụ trì chùa Hà Trung.
Năm Bảo Thái thứ 10 nhà Lê, Ngài
tịch tại chùa Hà Trung, sau khi dặn dò đệ tử và truyền bài kệ sau đây:
Tịch tịch, kính vô ảnh
Minh minh, châu bát dụng
Dường đường,vật phi vật
Liểu liểu, không vật không
Ðại ý: Thể pháp thân
thanh tịnh sáng suốt như mãnh gương sạch không bụi, như ngọc minh châu, trong
sáng bóng ngời. Tuy hiện tiền sự sự, vật vật sai khác, nhưng đều là thể pháp
thân biểu hiện. Thể pháp thân thường vắng lặng mà không phải là không, tức là
lý ”chân không diệu hữu”.
Xét trong” Lịch truyền tổ đồ ” thì
Ngài đứng về đời 69, xét về chánh thống phái Lâm Tế thì Ngài đứng về đời 33,
còn xét riêng về phái Lâm Tế ở Trung Việt, thì Ngài là sơ tổ.
6.- Phái Liễu Quán:
Phái Liểu-quán xuất phát từ
Liểu-Quán-Hòa-Thượng. Ngài Liểu-quán quê ở Phú-yên (Song-cầu). Ngài ra Thuận
Hóa thọ giới Sang-Di với Ngài Thạch-Liêm Hòa-Thượng. Năm 1702, Ngài đến
Long-Sơn cầu học pháp tham-thiền với Ngài Tử-Dung Hòa-Thượng (Tổ khai sơn chùa
Từ Ðàm Huế, người Trung Hoa).
Tổ Tử-Dung dạy Ngài tham-cứu câu:
”Vạn pháp quy nhất, nhất quy hà xứ ”, (muôn pháp về một, một pháp về đâu?) . Ngài
tham cứu mấy năm, đến khi xem bộ Truyền-Ðăng-Lục, thấy có câu: ” Chỉ vật truyền
tâm, nhơn bất hội xứ ”. Ngài liền tỏ ngộ. Năm 1742, cuối mùa thu, Ngài thọ
bịnh. Trước khi lâm chung, Ngài gọi môn đồ đến dạy rằng: ” nhơn duyên đã hết,
ta sắp chết đây ”.
Thấy môn đệ khóc, Ngài dạy rằng: ”
các người khóc làm gì? các Ðức-Phật ra đời còn nhập niết-bàn. Ta nay đi đến rỏ
ràng, về có chổ. Các người không nên khóc và đừng buồn thảm ”.
Rồi Ngài viết bài kệ từ biệt sau đây
:
Nguyên văn:
Thất thập
dư niên thế-giới trung
Không
không, sắc sắc diệu dung thông
Kim triêu
nguyệt mãn, hoàn gia lý
Hà tất bôn
ba vấn tổ tông.
Dịch nghĩa:
Ngoài bảy
mươi năm trong thế-giới
Không
không, sắc sắc thảy dung thông
Ngày nay
nguyện mãn về nơi củ
Hà phải ân
cần hỏi tổ tông.
Viết xong, Ngài bảo môn đồ:
Sau khi ta
đi, các ngươi phải nghĩ cơn vô-thường nhanh chóng, cần phải siêng năng tu học.
Các người hãy cố gắng tới chớ bỏ qua lời ta.
Ngài tịch vào ngày 22 tháng 11 năm
Nhâm-Tuất (1742) vào giờ Mùi, sau khi dùng nước trà xong và vui vẻ từ biệt môn
đồ.
Ðến đây chúng ta cũng nên nhận định
cho rỏ ràng điễm này: Như tôi nói ở đoạn trước, Thiên-Tôn do người Việt sáng
lập chỉ có một Phái duy nhất do vua Trần-Nhân-Tôn làm Sơ-tổ là phái Trúc-Lâm
Yên-Tử. Nhưng đến nay, chúng ta lại thấy xuất phát một phái nữa là phái
Liểu-quán, do Ngài Liểu-quán một danh tăng Việt-Nam chủ xướng, như vậy có mâu
thuẩn với sự nhận xét ở trên không? Thật ra, so với các phái Thiền-Tôn khác ở
Việt-Nam, thì phái Liểu-quán chỉ một phái nhỏ, chỉ nằm trong phạm vi mấy tỉnh miền
Trung-Việt.
Vả lại, Ngài Liểu-quán cũng là đệ-tử
của Ngài Tử-Dung, một vị sư Trung Hoa thuộc phái Lâm-Tế. Do đó, pháp Liểu-quán,
nếu chúng ta đi tìmm nguồn góc xa hơn một chút nữa, thì cũng chỉ là một chi
nhánh của phái Lâm-tế mà thôi.
Các
Kinh Sách Nói Về Thiền
Khi kinh sách nói về Thiền không thể
kể xiết được. Tuy thế, đễ quý độc-giả khỏi bỡ-ngỡ trong khi nghiên cứu, học
hỏi, chúng tôi xin dẫn một số sách thiết yếu sau đây:
1.-Kinh Lăng-già
2.-Kinh Lăng-Nghiêm
3.-Kinh Viên-Giác
4.-Kinh Pháp-Bảo-Ðàn
5.-Ðại-thừa Chỉ-quán
6.-Tiểu Chỉ-quán
8.-Ðồng môm Chỉ-quán
9.-Kinh Kim-cang
10.-Truyền-đăng-lục
11.-Thuyền-gia ngữ-lục
12.-Tọa-thiền chỉ nam
13.-Tông-cảnh-lục (của Ngài Tống
Diên Thọ Thiền-sư)
14.-Luận Ðại-thừa khởi tín (của Bồ
Tát Mã-Minh)
15.-Vô-môn-quán (của Tổng Tôn-Thiện
Thiền-sư)
16.-Bích-Nha-Lục (của Phật quả
Viên-ngộ)
17.-Thung-dung-lục (của Vạn tùng
Lão-nhơn)
18.-Thiền-lâm Vĩnh-gia tập (của
Huyền-giác)
19.-Thiền-tôn chỉ nam (của vua
Trần-Thái-Tôn) .v.v…
C.-
Tổng Kết các Loại Thiền định
Thiền-Ðịnh có nhiều loại, nhưng tóm
lại áo thể chia làm hai loại lớn: Chánh-định và tà-định, hay Phàm-phu thiền và
Thánh-nhơn thiền và Phật Giáo thiền.
Thiền Ngoại Ðạo
Những người theo lối thiền-định này
do tâm niệm không chơn-chánh (phiền-nảo, tham, sân, si v.v….) làm động cơ thúc
đẩy. Họ không nhắm ngay mục đích dẹp trừ vô-minh phiền-não, cầu được minh-tâm
kiến-tánh, hay giác-ngộ, giải thoát, mà chỉ nhắm mục đích nhỏ hẹp, thiển cận,
như cầu được thấy những điều huyền diệu, cầu được thần-thông biến-hóa để đi dạo
chơi ở các thé-giới khác, cầu thành tiên để lạc-thú tiêu-dao ở cảnh tiên, cầu
cho thân thể không bệnh hoạn, được trường sinh bất tử, cầu cho được phép lạ dể
trị bệnh, để thien hạ sùng-bái, kính phục, hoặc để gần gũi nữ sắc, hay cầu tài
lợi v.v..
Hảy lắng nghe lời Tổ Tôn-Mật dạy: ”
Người tà kiến chấp trước sai lầm , ư acõi trên, chán cõi dưới mà tu thiền, đó
là ngoại đạo thiền ”.
Thiền Phàm Phu
Những người tu theo loại thiền này
không có tâm niệm cao thượng, chỉ vì chán ngán cõi Dục làm ô-trược mà cấu
sinhvề cõi sắc và Vô-sắcđể hưởng thú vui thanh thoát.
Hãy lắng nghe Tổ Tôn-Mật phê phán
hạng người tu về loại thiền này: ” Người chán tin nhơn quả, nhưng dùng sự ưa
cõi trên chán cõi dưới mà tu thiền là phàm-phu thiền ”.
Thiền Phật Giáo
Thiền-định của Phật Giáo có hai loại:
Tiểu-thừa thiền và Ðại-thừa thiền.
-Tiểu-thừa thiền: là những pháp
thiền dành cho người có căn tánh Tiểu-thừa. Người tu phép Thiền-định này chỉ có
công-dụng hạn cục, vì tu pháp nào thì chỉ trừ được phiền-não cũa pháp ấy. Và sự
tu luyện ở đây cũng chỉ tuần tự mà tiến, chứ không thể đốn-ngộ nagy được.
Hơn nữa, người tu Tiểu-thừa thiền,
tuy đã phá ngã-chấp, nhưng còn bị pháp-chấp. Họ không ngộ được rằng: những
phương-pháp tu hành đều là phương tiện để giúp cho họ dẹp trừ vô-minh phiền
não, tiến lên chổ giác ngộ, chớ không nên cố chấp có nên tu, thật chứng.
- Ðại-thừa thiền: Ðây là phương-pháp
tu thiền của các vị Bồ Tát, căn tánh mau lẹ, vượt bưc. Với hạng này, các vị chỉ
nghe một câu nói hay chỉ tu một pháp, cũng có thể liền tỏ ngộ; như Ngài
Huệ-Năng, chỉ nghe câu ” Ưng vô sở trụ, nhi sanh ký tâm ”, hay Ngài Ca-Diếp,
chỉ thấy Phật đưa cành hoa sen mà liền tỏ ngộ
Sở dĩ các vị này mau tỏ ngộ như thế
là vì họ đã trải qua nhiều kiếp tu hành rồi, sắp được giác ngộ, nay gặp thời
cơ, nhân duyên thì liền phát-chiếu, như cành hoa đã được vun tưới đủ sức rồi,
chỉ chờ thời tiết là trổ bông.
Hãy nghe Tổ Tôn-Mật nói về các vị
này: ” Người ngộ được lý ngã, pháp đều không mà tu thiền là Ðại-thừa thiền.
Người đốn-ngộ tự tâm xưa nay vốn thanh-tịnh, không có phiền-não, đầy đủ trí-huệ
vô-lậu, tâm ấy tức là Phật, rốt ráo không khác. Y theo tân này mà tu thiền là
Tối-thượng thừa thiền, cũng gọi là Chơn-như tam-muội ”.
Vè phương-pháp tu chứng và truyền
thọ của Ðại-thừa thiền có ba cách:
- Cách thứ nhất: Ðây là các loại tam-muội má hành-giả căn cứ theo các kinh
sách Ðại-thừa tu luyện, như Pháp-hoa tam-muội, Niệm-Phật tam-muội, Gíac-ý
tam-muội, Thủ-tăng-liêm tam-muội v.v….
- Cách thứ hai: Lối thiền này không căn cứ theo kinh điển, văn tự, mà chỉ
dùng một câu nói ngắn ngủi để chỉ giáo. Trong Phật Giáo gọi lối thiền này là: ”
Bất luận văn tự, giáo ngoại biệt truyền ” (không dùng văn tự, truyền ngoài kinh
giáo). Thiền-giả chỉ căn cứ theo một câu nói ấy mà nghiên cứu mãi cho đến khi
tỏ ngộ. Công việc tham-cứu này, Thiền-giả có nhiều khi kéo dài hàng chục năm.
- Cách thứ ba: Với cách này,chúng ta khó có thể say nghĩ luận bàn gì được.
Trong cách này, khi có người đến cầu pháp, các Tổ sư không dùng lời nói mà chỉ
dùng một cử chỉ gì đó, hay một tiếng la hét mà thôi.
Như dòng Lâm-Tê, khi có người đến
cầu đạo, Thiền-sư chỉ dùng gậy đánh và tiếng hét.
Như dòng Quy-ngưỡng, các vị Tổ-sư
chỉ vẽ hình thú, hình người, hình chữ Vạn mà khai ngộ cho đệ-tử .
Như dòng Vân-môn, có vị Tổ chỉ nói
một chữ, mà làm cho người cầu đạotỏ ngộ.
Như có Ngài chỉ đãi nước trà (Ngài
Triệu-châu) hay mời ăn cơm, mà người đến cầu đạo được tỏ ngộ.
Có Ngài lại ngắm bóng mình cưới nước
và cười, khi đi ngang qua cầu, liền ngộ đạo (hổ khê tam chiếu chí kim truyền),
hay nghe chim oanh hót trên cành liễu, hay lấy gậy đập cục đất cho để tan mà
liền tỏ ngộ.
Thật là thiền-cơ nhiệm-mầu, người
ngoài không thê rsay nghĩ, bàn luận được.
Muốn cho người cầu đạo được kết-quả,
các vị truyền pháp phải hội đủ ba diều kiện sau đây:
-Biết văn-cơ người cầu đạo.
-Biết thời-tiết đúng lúc truyền đạo.
-Biết phương-pháp nào thích hợp,
trong ba phương-pháp nói trên, nếu truyền bá không hợp cơ, hợp thời, hợp pháp
thì người tu thiền không có kết-quả.
Trước khi dừng bút, chúng tôi có một
nhận xét sau đây ma fchác quý độc-giả cũng đồng ý là: Nước ta ngay fxưa là một
nước chịu ảnh hưởng lớn của Thiền-tôn, và Thiền-tôn là môn phái rất thịnh hành
trong nước. Thế mà ngày nay, vi fbao cuộc biến thiên của lịch sử, Thiền-tôn
không còn được truyền thọ trong các chùa cũng như trong dân chúng một cách
sung-mậu như xưa nữa.
Vậy chúng tôi hy-vọng rằng, từ đây
về sau, nhờ sự giao-thông tiện lợi từ nước này sang nước khác, nhờ sự trao đổi
văn hóa, và nhờ gia tâm tu học của các Phật-tử Việt-Nam, Thiền-tôn sẽ lấy lại
sắc thái sung-mậu ở Việt-Nam như các thờiLý, Trần.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét