HT. THÍCH TRÍ QUẢNG
Đắc nhân tâm là được lòng
người. Người ta làm được việc trước tiên phải được lòng người; mất lòng người
thì việc nhỏ cũng không làm được, huống là việc lớn. Phật tử phải luôn trân
trọng điều tốt và bạn tốt hiện tại, đồng thời tranh thủ nhân tâm là tìm thêm
bạn tốt. Bạn tốt của chúng ta càng đông, việc chúng ta càng lớn.
Phật dạy 4 điều đắc nhân tâm
là 4 pháp nhiếp phục người, tức 4 điều kiện để gần gũi và thu phục nhân tâm.
Muốn có được sự đắc nhân tâm theo Phật giáo không phải là đắc nhân tâm của
chính trị dùng mọi cách để người ủng hộ mình, nhưng đòi hỏi phải có quá trình
tu Bồ-tát đạo mới có thể thực hiện 4 điều đắc nhân tâm, chứ không phải dùng xảo
thuật. Ví dụ đồng sự nhiếp ở đại chúng, ta phải sinh hoạt tùy thuận với họ, như
lên vùng Tây Nguyên, muốn thu phục họ, chúng ta phải ở nhà sàn, uống rượu cần
và nhảy múa, hòa đồng với họ thì mới được chấp nhận; đó là sự lệ thuộc xã hội
khác với Bồ-tát tu hành phát xuất từ niềm tin đối với Phật pháp và chúng ta áp
dụng được Phật pháp trong cuộc sống, đạt được thành quả khiến cho người thấy
mới phát tâm tin theo, làm theo.
Kinh Hoa Nghiêm dạy
chúng ta phải trải qua các giai đoạn tu Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh và Thập
hồi hướng. Tu Thập hồi hướng nghĩa là tất cả việc làm của chúng ta trước nhất
phải hồi hướng Vô thượng Bồ đề, nghĩa là nâng trình độ tri thức của chúng ta
đến đỉnh cao nhất để khỏi phạm sai lầm khi dấn thân vào cuộc đời. Như vậy, hành
giả Đại thừa tiến tu, phải kiểm chứng xem mình ít lỗi lầm cho đến không lỗi lầm
mới được, chứ đắc nhân tâm theo kiểu ngoại đạo, tà giáo mê hoặc lòng người,
quần chúng thích gì chúng ta dụ dỗ họ thì ta và họ cuối cùng rơi vào khổ đau.
Việc chính của hành giả là nâng trình độ kiến thức đến thấy không còn sai lầm
nữa, thấy việc nên làm, việc không nên làm và ta hướng dẫn người cùng làm để
đạt kết quả tốt.
Thứ hai là hồi hướng Pháp
giới chúng sinh là tranh thủ sự đồng tình. Chúng ta hiểu biết rồi, nhưng phải
làm cho người hiểu biết chính xác. Bồ-tát Di Lặc hiểu biết hoàn toàn, nhưng
không xuất hiện trên cuộc đời, vì quyến thuộc của Ngài chưa hiểu biết như Ngài,
tức chưa đồng tình; cho nên Di Lặc phải làm cho chúng sinh hiểu biết như Ngài
thì bấy giờ mới đặt vấn đề được, gọi là chúng sinh chưa thuần thục, hay hiểu biết
chưa tới, chưa chín muồi, nên thất bại dù làm đúng. Vì vậy, người trí thức
thường than rằng việc không thành vì đi trước thời đại. Thể hiện ý này, Hòa
thượng Trí Tịnh dạy rằng chúng ta biết, nhưng việc này phải đúng lúc làm hay
chưa. Người là quyến thuộc của ta, bạn của ta, hay học trò của ta, nhưng phải
biết đúng lúc sử dụng người này được chưa. Chưa đúng lúc thì phải chờ, ví như
trái chưa chín, hái ăn không được.
Thiền sư Nhật đắc Thiền, nhìn
xã hội chính xác qua mẩu chuyện ba nhân vật nổi tiếng. Người thứ hai là một
tướng quân thấy được thời cuộc, nên nắm thời cơ, vận dụng thời cơ để thành
công. Ông này nói con chim cu chưa biết gáy, ta bắt nó phải gáy, nghĩa là anh
hùng tạo thời thế, phải đi trước thời đại. Nhưng ông này chỉ thành công, làm
được việc trong một giai đoạn ngắn mà thôi, vì ông bất chấp nhân tâm để đạt
được mục đích, ông phá chùa giết Tăng, để rồi cuối cùng ông bị thiêu chết trong
chùa.
Người thứ nhất thì quyết định
rằng con chim không gáy, ta phải giết nó. Ông này giết người và cuối cùng ông
cũng bị giết.
Người thứ ba là Đức Xuyên Gia
Khang bảo rằng con chim chưa gáy thì chờ cho nó gáy. Ông này thành công vì biết
chờ đúng lúc, chờ thời cơ chín muồi mới làm được; cho nên ông lãnh đạo xã hội
suốt thời gian dài cả mấy trăm năm.
Di Lặc Bồ-tát đang ở trong tư
thế quán sát và chuẩn bị, chờ điều kiện chín muồi để làm. Hồi hướng Pháp giới
chúng sinh là hành Bồ-tát đạo để tranh thủ nhân tâm, có được sự đồng tình của
nhiều người nhất. Đồng tình chưa cao là họ chưa hiểu, chúng ta phải làm cho họ
hiểu, tức phải có quá trình hành Bồ-tát đạo dài lâu.
Hồi hướng Vô thượng Bồ-đề là
học cho thành tài thì khó, nhưng giai đoạn hai, hồi hướng Pháp giới chúng sinh,
tu cho thành đức còn khó hơn nữa. Và sang giai đoạn ba, được người thương rồi,
tâm phải rộng mở, bao dung; vì người đến đông, thì chín người mười ý, làm sao
chúng ta vừa lòng trăm họ; đó là việc rất khó, nhưng phải làm được.
Người nào cũng có kẻ chống
đối, nhưng chúng ta bị chống thì hồi hướng Chơn như thật tướng, nghĩa là chúng
ta đưa nó ra ngoài, đừng để trong lòng. Theo kinh nghiệm riêng tôi, ta bị hãm
hại, gặp khó khăn, nhưng Phật dạy chúng ta đừng để ấm ức trong lòng, vì buông
bỏ tất cả thì cái nhìn của mình mới sáng suốt và tùy theo đó chúng ta làm đạo.
Đó là giai đoạn tu Thập hồi hướng. Nếu chúng ta chưa qua giai đoạn Thập hồi
hướng, niềm tin chưa vững, trụ pháp cũng chưa vững, hạnh không có, mà muốn thu
phục người là sai lầm lớn, chỉ chuốc họa vào thân. Phật dạy chúng ta phải có
quá trình tu, không phải áp dụng liền Tứ nhiếp pháp được.
Qua Thập địa Bồ-tát mới tu
được 4 pháp nhiếp. Còn ở giai đoạn Thập hồi hướng chưa tu được 4 pháp nhiếp,
chỉ mới chuẩn bị thôi. Vì vậy, chúng ta cần có Bồ-tát lớn dìu dắt, còn tự làm
không được. Chúng ta có niềm tin vững, mong Phật, Bồ-tát thị hiện trợ hóa mới
làm được. Đó là kinh nghiệm của tôi thấy như vậy, không có các Bồ-tát trợ hóa,
khó thành công.
Thành tựu đến Thập hồi hướng
là đã qua được 40 chặng đường tu chứng, mới đăng địa Bồ-tát, chính thức ra lãnh
đạo, thì Phật dạy Bồ-tát Thập địa tu 4 pháp nhiếp và 10 môn Ba-la-mật để độ
đời, nghĩa là đến đây mới chính thức độ đời thì chúng ta nghĩ sao?
Phật nói Bồ-tát sơ địa thường
hiện thân làm tiểu vương, là đến đây mới tập hợp quần chúng hiểu được ta, không
phải quần chúng không hiểu và quần chúng chống đối. Quần chúng chống đối mà ta
chinh phục họ để đắc nhân tâm là không được, vì nói gì họ cũng chống, khiến
chúng ta bực, thì chúng ta nghĩ giết quách nó, như vậy là giống ông thứ nhất ở
phần dẫn dụ trên rồi.
Ta nói đúng, phải, nhưng lúc
nào họ cũng chống, theo kinh nghiệm của tôi, ta nên để họ riêng ra một chỗ và
ta mở rộng lòng bao dung họ, để họ quan sát việc của ta. Họ chống, ta được mặt
nghịch duyên hành đạo, vì không có sự chống đối, chúng ta dễ chủ quan. Chúng ta
luôn lóng nghe để sống tốt, làm tốt. Không giết họ, không phản ứng với họ,
nhưng để cho họ chống đối thì ta thấy được ta, vì ta khó có con mắt nhìn ta.
Nhờ họ bươi móc, ta thấy được cái dở của mình mà khắc phục.
Thứ hai là quần chúng chưa
hiểu, chưa chấp nhận, từ từ ta làm họ phải hiểu, phải chấp nhận. Trên thực tế,
chúng ta thấy người chống, người chưa hiểu thì luôn luôn đông, người hiểu ta
phải nói là ít. Cả nước Việt Nam có 80 triệu dân, chúng ta đắc nhân tâm được
bao nhiêu? Người theo chúng ta được 1 triệu người là giỏi lắm, nhưng mấy ai
được như vậy. Cho nên hạ xuống, được lòng 100 ngàn người thì cũng còn quá nhỏ
so với con số 80 triệu dân. Và hạ thấp nữa, ta còn 10 ngàn người sống chết với
ta, đó là con số khiêm tốn thì Phật nói chỉ làm được tiểu vương lãnh đạo một
nước nhỏ thôi. Vậy mà còn chưa có nữa, thử hỏi trong hội chúng có người nào
được như vậy hay không.
Đắc nhân tâm rất khó. Có một
vạn người sống chết hết lòng với chúng ta là quá khó. Chúng ta phải có quá
trình tu từ Thập tín, cho đến Thập hồi hướng không biết phải trải qua bao nhiêu
kiếp. Một kiếp kiếm được vài người bạn tâm giao, hay quyến thuộc Bồ đề cũng khó
rồi. Bồ-tát phải xả thân nhiều kiếp mới có được một số người theo. Ở Nhật Bản,
tôi gặp một người có sức thu hút người rất lớn. Ông này không có học vị, mà nay
ông được tặng nhiều bằng tiến sĩ danh dự, đó là ông Ikeda. Hiện nay ông làm
viện trưởng viện đại học, lúc chưa làm viện trưởng, ông lãnh đạo Hội đoàn Sokai
Gakkai có đến 16 triệu tín đồ là hội đoàn lớn nhất của Phật giáo Nhật. Tại sao
trong một đời người mà ông làm được việc lớn. Phải nói đó là Bồ-tát tu nhiều
đời tái sanh, nên người ta trông thấy, hoặc nghe nói là họ theo. Tôi có tham dự
buỗi diễn thuyết của ông, thấy quần chúng hết lòng với ông, nên ông làm gì cũng
được. Ông là người đắc nhân tâm nhất trong thập niên 60 ở Nhật Bản.
Phật nói tiểu vương tu 10
pháp Ba-la-mật và 4 pháp nhiếp, nghĩa là đang thực hành những điều đắc nhân
tâm. Trong mười Ba-la-mật, lấy bố thí làm chính, trong 4 pháp nhiếp cũng lấy bố
thí làm chính, tức người tu thực sự luôn nghĩ đến quyền lợi cho người khác; đó
là đắc nhân tâm quan trọng nhất. Những gì chúng ta có được, chúng ta dành cho
người khác, hồi hướng cho người khác. Người chống vì nghĩ quyền lợi và danh dự
về ta, nên họ chống ta.
Hòa thượng Thiện Hoa
nói:
Có
tài thì phải có tai
Những người ngu muội ai mà nói chi
Ngày nào không có thị phi
Tai không nghe tiếng vậy thì như không.
Không nghe thì như không,
nghe chi cho khổ. Cái khổ của con người là cố gắng tìm nghe rồi bực tức. Họ
chống ta vì quyền, vì lợi thôi. Những người ăn mày, ai chống họ. Đức Phật ngày
xưa ngủ dưới gốc cây, không ai chống, vì không xâm phạm quyền lợi của người
khác, nhưng Ngài dành tất cả quyền lợi cho người. Ta cho, họ được quyền lợi,
người người sẽ ủng hộ ta, là đắc nhân tâm. Được lòng thiên hạ là vì lo cho
thiên hạ, giúp đỡ thiên hạ tiến lên, nên họ tôn chúng ta lên làm lãnh đạo để
bảo vệ quyền lợi của họ.
Còn bảo họ ủng hộ để đắc cử
mới cho quyền lợi là đắc nhân tâm được nhất thời, tức lợi dụng, trong khi theo
đạo Phật, người đắc nhân tâm ở bước ban đầu gặp khó, nhưng vượt khó đi lên, nên
Phật nói họ thường làm tiểu vương, vì đức và tài còn mỏng mà lo cho đời sống
vật chất và tinh thần của nhiều người là việc không đơn giản. Tôi không sợ
người không theo, nhưng sợ theo mà mình không bảo bọc được. Tôi lóng nghe những
người tới với tôi đều đòi hỏi quá nhiều, trong khi khả năng tôi kém mà tham
vọng của họ thì lớn, đức độ mình mỏng thì làm sao gánh nổi. Vì vậy, các vị chỉ
làm tiểu vương, lãnh đạo một nhóm nhỏ, làm cho họ tốt, không phải lãnh đạo đông
mà không lo được.
Các Bồ-tát tu pháp nhiếp thứ
nhất thường làm tiểu vương lo cho một số nhỏ thành tài đức cũng tốt rồi và lấy
thành quả này làm nền tảng vững chắc, tức người mình nuôi dạy thành người tốt
và có nhiều người theo ta đều tốt giỏi, thì người ở xa cũng hướng tới, là tiếng
lành đồn xa, đất lành chim đậu. Thực tế chúng ta thấy người chuẩn bị khởi nghĩa
giỏi tốt, thì anh hùng trong thiên hạ sẽ tập trung về. Trong Phật giáo có một
vị đặc biệt là Đức Phật Di Đà thành Phật thì việc đầu tiên của Ngài là thành
lập An dưỡng quốc là tiểu quốc, nhưng tất cả người đến đó đều được an lạc,
không tranh chấp hơn thua, sống hiền hòa. Tiếng lành này đồn xa, nên chư Bồ-tát
mười phương nghe danh tìm đến đông, biến tiểu quốc An dưỡng quốc thành thế giới
Cực lạc.
Vì vậy, Phật nói rằng chúng
ta tu pháp nhiếp thứ nhất thành công sẽ tiến sang làm Chuyển luân thánh vương,
tức đức độ chúng ta mở rộng, danh tốt vang xa. Bây giờ người tốt chưa tới với
tôi, vì tôi chưa thuyết phục được họ. Chung quanh chưa có người tốt, giỏi thì
làm được gì. Phải tập trung được người tốt, giỏi mới xây dựng được đời sống ấm
no hạnh phúc. Tiếng lành đồn xa mới thành Chuyển luân thánh vương trên thực tế,
hay trong thế giới tâm linh gọi là thế giới Cực lạc chỉ toàn người tốt. Cái
hiểu của họ đồng với Phật, vì từ niềm tin của họ được Phật truyền sang. Vì vậy,
chúng ta lấy hiểu biết của Phật làm hiểu biết của mình, làm cuộc sống của mình,
không dùng xảo thuật. Người ở Cực lạc là vậy. Tâm Phật Di Đà truyền sang tâm
mọi người. Phật Di Đà thanh tịnh, giải thoát, an vui truyền sang họ thì họ cũng
được như vậy. Quý vị thực tập pháp này sẽ thấy rõ. Tôi thấy cuộc đời này khó
khăn, không vui, nhưng hướng tâm về Phật Di Đà thì nhận được Cực lạc của Ngài
làm tôi quên đi oi bức của cuộc sống.
Một Chuyển luân thánh vương
lấy đức trị người thì trong 10 môn Ba-la-mật, họ tu trì giới là chính và biến
giới thành đức; vì có nhiều người theo ta, đòi hỏi sự trong sáng của ta mới
không làm họ thất vọng. Những người làm chính trị lợi dụng xong thì bị người
khám phá cái xấu của họ là thu gom quyền lợi, nên người ghét và chống đối.
Phật dạy càng có người đến
với ta, ta phải trong sạch hơn, nên Bồ-tát lấy trì giới là chính; vì có người
đến thì phải giữ gìn, gọi là giữ kẽ, tức giữ ý và giữ lời nói, lỡ nói sai,
người ta ghi âm ghi hình thì nguy hiểm và giữ gìn hành động, oai nghi, cử chỉ
của mình.
Trì giới của Bồ-tát theo kinh Hoa
Nghiêm là trì giới Thập thiện là chính, vì thân khẩu ý không thanh
tịnh không thể hành Bồ-tát đạo; cho nên đòi hỏi ba nghiệp phải thanh tịnh. Có
những vị tôn túc không làm việc nhiều, nhưng nhờ ba nghiệp thanh tịnh, cũng
lãnh đạo và được kính trọng. Có vị học giỏi, nói hay, nhưng không giữ ba nghiệp
thanh tịnh, nên cuộc đời lận đận lao đao, nhắm mắt còn ân hận, tôi quan sát
những người đồng thời với tôi và những người đi trước thấy như vậy. Cho nên tôi
nhắc quý vị khi giận thì đừng nói, vì giận mất khôn. Nói trong lúc bình tĩnh có
sai lầm cũng giới hạn; nói lúc bực tức không bao giờ đúng; nói phát xuất từ
lòng tham càng không đúng. Khi chúng ta làm gì, nghĩ làm cho người, người dễ
chấp nhận. Nói mà lòng chúng ta ẩn chứa cái khác, làm họ hoài nghi.
Trì giới thanh tịnh là giữ
cho thân nghiệp mình không phạm 3 điều là sát sanh, trộm cắp, tà dâm, giữ cho
khẩu nghiệp mình không nói sai sự thật, không nói hai chiều, không nói lời hung
ác, không nói đâm thọc và giữ cho ý nghiệp không tham, sân, si. Dù họ vô lễ
mấy, cũng không được chửi mắng họ. Và người lãnh đạo không được nói sai. Người
xưa nói rằng vua không được nói chơi, người quân tử phải nói chính xác, hay uốn
lưỡi ba lần, nghĩ có nên nói hay không, nghĩ có đúng lúc nói hay chưa và nghĩ
điều này nói với ai. Phật bảo rằng có người phải chờ họ vào địa ngục mới độ
được. Ngài Ưu Ba Cúc Đa là Tổ Thiền tông ngộ đạo lúc còn rất trẻ và Ngài lại có
ngoại hình đẹp. Ngài gặp một cô vũ nữ đẹp muốn thỉnh Ngài về cúng dường. Ngài
nói chưa đúng lúc cúng dường. Đến khi cô này lớn tuổi, thất bại, không được
trọng dụng, lại mang bệnh hủi, nên bị bỏ ngoài gò hoang chờ chết. Ngài mới đến
thuyết pháp cho cô nghe. Lúc cô sang trọng giàu có, Ngài không tới, nay mới đến
là đến lúc cô cần nghe pháp thì nghe pháp xong, tâm cô được an lạc. Ngài chờ cô
sa cơ thất thế mới thả sợi tơ xuống kéo lên.
Người tu luôn giữ ba nghiệp
thanh tịnh, vì mình lãnh đạo có hàng trăm đôi mắt nhìn mình, thậm chí dò luôn ý
đồ của mình. Hoàn toàn trong sạch mới thành Thánh vương là Bồ-tát đệ nhị địa tu
trì giới thanh tịnh và trong 4 pháp nhiếp, tu ái ngữ, không bao giờ nói lời bực
bội, nóng nảy dù đúng hay sai. Thuở nhỏ tôi hầu Hòa thượng Thiện Hoa thấy Ngài
có nụ cười dễ thương, việc khó hay dễ Ngài cũng cười; người nói xấu, Ngài cũng
cười. Trong thập niên 50, Hòa thượng mở khóa học cho người trí thức, có 30, 40
người học. Hòa thượng giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm. Ngài giảng vô
minh và vẽ vòng tròn. Hòa thượng nói tâm chơn như của chúng ta trong sáng như
cái vòng tròn, nhưng vô minh nổi dậy che khuất tâm chơn như, giống như mây che
mặt trăng. Một nhà nghiên cứu cầm viên phấn vẽ vô vòng tròn và hỏi tại sao tâm
trong sáng như vầy mà tự nhiên lại có vô minh nổi lên. Hòa thượng Thiện Hoa
cũng cười. Tất cả không ai dám nói, nhưng có người hỏi là tạo điều kiện cho Hòa
thượng Thiện Hoa giải thích, kinh Đại thừa gọi đó là chúng duyên khởi tạo điều
kiện nghịch lại để pháp sư giảng.
Giữ tâm trong sáng sẽ phát ra
lời nói êm tai mát lòng là đắc nhân tâm. Còn bên trong họ chứa cái gì thì có
nói êm tai mấy chỉ là mật ngọt chết ruồi, ta nên cẩn thận.
Đắc nhân tâm phát xuất từ lời
nói và lời nói phát xuất từ tình thương bao la và chân thật. Vì vậy, ái ngữ rất
cần, vì mọi người trên cuộc đời cần nghe lời êm dịu mới hạ được cơn tức của họ,
cần tâm trong sáng thanh tịnh mới tháo gỡ được cho người. Còn đang bực bội, gặp
người nói xóc óc, chắc chắn quý vị khó nhịn. Tôi cũng khó nhịn, nhưng nhớ đến
Bồ-tát, gương sáng của các Ngài hiện lên mới nhịn được. Như vậy, điều hai Phật
dạy đắc nhân tâm là ở hoàn cảnh nào, chúng ta cũng nên ôn hòa, từ ái, khiêm
cung.
Thứ ba, đắc nhân tâm là lợi
hành, tức làm việc hoàn toàn vì người khác, thì Trời mới làm được. Còn người
thế gian làm sòng phẳng là tốt rồi, họ giúp đỡ ta, ta giúp lại là sống có tình
người, không lợi dụng nhau là người tốt.
Chỉ có Thượng đế lo cho tất
cả mọi người mà không cần người biết ơn. Lợi hành nhiếp là nhiếp thứ ba, không
nghĩ lợi mình, nhưng chỉ nghĩ đến lợi người. Ở tổ đình Huê Nghiêm có câu đối
là:
Thân
nhân ái chúng khuyến quân thiện sự tu tham
Lợi
kỷ tổn nhân giới nhữ ác đồ mạc lạc.
Thân nhân là gần gũi, thương
yêu người là việc nên làm. Lợi kỷ tổn nhân là việc ác không nên làm. Lợi hành
nhiếp là vì lợi người khác mà ta làm, ta nói thì chắc chắn người thương và chấp
nhận theo ta.
Và lên Bồ-tát đệ tam địa
thường làm vua cõi Trời và trong 10 môn Ba-la-mật, tu pháp nhẫn nhục. Ta thương
người, nhưng họ không hiểu, mắng mình thì chỉ có Thượng đế dằn được. Vì vậy,
muốn làm Thượng đế phải nhận tất cả mọi thứ đổ oan của chúng sinh lên mình mà
lòng vẫn vui. Thiết nghĩ ta làm chưa được thì phải chấp nhận người chê, người
mắng. Thí dụ tôi làm Trưởng ban Trị sự Thành hội Phật giáo TP.HCM, Phật tử thưa
kiện việc này, quyền lợi nọ. Giải quyết được cho người này thì làm mất lòng người
kia. Rất khó làm vừa lòng tất cả mọi người, nên phải chấp nhận họ xỉ vả, nhưng
tôi vui, nhờ họ chửi mà tôi nhẹ lòng, còn họ tin tưởng mình thì càng làm mình
nặng lòng thêm.
Tóm lại, đắc nhân tâm theo
Phật dạy phải trải qua quá trình hành Bồ-tát đạo không đơn giản, mỗi đời làm
được một việc là tốt lắm rồi, mỗi đời tạo thêm được một số quyến thuộc Bồ đề là
quý lắm rồi, cho đến ngày thành tựu quả vị Phật mới đắc nhân tâm hoàn toàn. l
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét