Mở Ðề
Ăn Chay Là Một Phương Pháp
Tu Hành Của Người Phật Tử
Vấn đề ăn uống là một vấn đề
quan trọng đối với tất cả mọi người, mọi chúng sanh. Nếu sống mà không cần ăn,
thì tất cả chúng sanh đều thành Thánh cả rồi. Ðức Phật Thích Ca, khi còn là một
vị Thái Tử, đã nói một câu đầy ý nghĩa: “Sự sống sống bằng sự chết”.
Hãy nghĩ
lại mà xem: từ khi lọt lòng mẹ đến bây giờ, để được sống, mỗi chúng ta đã làm chết
bao nhiêu sinh vật rồi? Chúng ta ăn, chúng ta uống, chúng ta thở, chúng ta nằm,
chúng ta đứng, chúng ta đi, mỗi mỗi động tác như thế, đều đã gây bao tang tóc
cho những sinh vật ở chung quanh chúng ta! Ðó là chưa kể những kẻ hung ác, giết
để được thích thú, được tiền tài, danh vọng…Nếu sự sống mà không làm *ai chết
ai cả, thì cuộc đời sẽ đẹp đẽ biết bao nhiêu ! Sự ước ao này có thể thực hiện
được một phần lớn, nếu chúng ta áp dụng phương pháp ăn chay mà Phật đã chế ra.
Như thế, ăn chay đối với
người Phật tử không phải là một sự hiếu kỳ, một sự hiếu danh, một cách đổi món
ăn cho ngon miệng, một cách kiêng cữ theo lời dặn của bác sĩ. Ăn chay chính là
một phương pháp tu hành rất quan trọng, mà người Phật tử thực hành được nhiều
chừng nào thì được nhiều kết quả tốt đẹp chừng ấy.
Chánh Ðề
Ðịnh Nghĩa
Ăn chay, hay ăn lạt, nghĩa
là ăn những loài thảo mộc: hoa quả, rau cải, không ăn những món ăn thuộc loài
động vật như thịt, cá, tôm, cua, sò, ốc những vật hữu tình, biết tham sống sợ
chết như người.
Lý Do Ăn Chay
1. Vì lòng từ bi và bình
đẳng
Khi đức Phật còn tại thế,
một hôm Ngài A Nan hỏi Phật rằng:
-Bạch Phật , tại sao trước
kia, Phật cho các Ðệ tử ăn ngũ tịnh nhục (Ngũ
tịnh nhục là năm thứ thịt thanh tịnh: a) Thịt ăn mà không thấy người giết. b)
Thitc ăn mà mình không nghe tiếng con vật bị giết kêu. c) Thịt ăn mà mình không
nghi người ta giết cho mình. d) Thịt con thú tự chết. đ) Thịt con thú khác ăn
còn dư), mà nay Ngài lại cấm tuyệt ăn thịt cá?
Phật trả lời Ngài A Nan: Vì
trình độ các ông trong buổi sơ cơ còn thấp kém, chưa có thể lãnh thọ giáo pháp
Ðại Thừa, thực hành đúng lý đặng, nên khi ta còn nói pháp Tiểu Thừa, phương
tiện cho các ông tạm dùng ngũ tịnh nhục. Ðến nay trình độ các ông đã cao, lãnh
thọ được giáo pháp Ðại Thừa, nên ta cấm tuyệt ăn thịt cá. Còn ăn thứ ấy, thì
còn phạm giới sát sanh, nếu không trực tiếp sát thì cũng gián tiếp sát, làm mất
hạt giống từ bi bình đẳng, không thể nào tu hành thành Phật được.
Lời Phật dạy đã rõ ràng: Ăn
chay là cốt yếu để nuôi dưỡng lòng từ bi và tinh thần bình đẳng.
Thật thế, Phật tử là người
đã theo đạo từ bi, thì không lý nào lại không thực hành đức từ bi trong đời
sống của mình từ ý nghĩ, lời nói, cho đến cách ăn uống.
Nếu chúng ta vì muốn ăn cho
khoái khẩu, sướng bụng, mà nhẫn tâm nhìn cảnh chặt đầu, lột da những con vật
hiền lành vô tội, nhẫn tâm bịt tai giả điếc trước những kêu la thảm thiết của
những con vật đang giẫy giụa trêm tấm thớt, trên bàn thịt, thì sao được gọi là
Phật tử.
Nếu không có một lòng thương
xót trước những cảnh giết chóc như thế, thì hạt giống từ bi mỗi ngày mỗi héo
khô, cằn cỗi, và công phu tu hành, tụng kinh niệm Phật của chúng ta trở thành
vô ích.
Ðạo Phật là đạo Từ Bi mà
cũng là đạo Bình Ðẳng. Phật dạy: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh như nhau”.
Vậy thì người Phật tử dưới tầm con mắt của mình, không nên thấy *Người và vật
khác nhau, mà chỉ đồng một tri giác bình đẳng, ẩn trong thân hình sai biệt. Nói
rằng: “Vật dưỡng nhơn” là một quan niệm rất sai lầm, do sự ích kỷ và ngạo mạn
của người sinh ra. Quan niệm ấy dung túng cho người ta thẳng tay giết hại sanh
vật, và tạo ra một tình trạng bất bình đẳng, thì không bao giờ cõi đời có thể
yên ổn, hòa bình được.
2. Vì muốn tránh quả báu
luân hồi
Phật dạy: “Tất cả chúng sanh
từ vô thỉ đến nay, cứ tạo nhân tội ác, sát hại ăn thịt lẫn nhau, nên bị ác quả,
là sanh tử luân hồi mãi trong sáu đường”. Kinh Lăng Nghiêm nói: “H giết một
mạng thì hãy trả lại một mạng; tâm giết hại chẳng dứt trừ, thì không thể nào ra
khỏi trần lao được.” Vậy muốn tránh oan báo luân hồi, tránh các điều tội lỗi
thuộc về giới sát. Phật tử phải ăn chay. Nếu ăn mặn hoài thì không thể nào hết
nợ thân mạng và nợ xương thịt, máu huyết được.
3. Vì hợp vê sinh
Không phải mới từ nay mà từ
ngàn xưa, một triết gia, ông Senèque, đã nói rằng: “Mỗi bữa ăn, người ta dùng
thịt là tự đầu độc, thành thử con người tự sát ngấm ngầm mà không hay biết, do
đó con người bị mạng yểu, chết sớm”. Thật thế, ngày nay những nhà y khoa bác sĩ
trứ danh như ông Soteyko, Varia Kiplami có nói: “Trong các thứ thịt, có nhiều
chất độc rất nguy hiểm cho sức khỏe con người”. Bằng chứng cụ thể là rau cải để
lâu ngày thì héo khô, hoặc ung bấy mà ít hôi; còn thịt cá để lâu ngày thì sình,
ương, hôi tanh không ai chịu nổi, và khi ăn vào, ta thấy trong người rất nặng
nề, mệt nhọc ,khó tiêu. Hơn nữa, các loài thú vật, thường mắc bệnh này hay bệnh
khác như: bệnh lao, bệnh thương hàn, bệnh sán, sên v.v…,nếu chúng ta ăn vào, sẽ
vướng bệnh, rất nguy hiểm.
Ðể tránh những bệnh tật, và
tăng sức khỏe, chúng ta nên ăn nhiều rau cải. Các nhà khoa học, cũng như các
nhà y học Ðông, Tây đều công nhận đồ ăn chay là nhẹ nhàng, thanh khiết, d tiêu
hóa và có nhiều sinh tố rất bổ. Bởi thế, ở nước Nhật có hội “Tổ Thực Chủ
Nghĩa”, ở Pháp, Ðức, Anh, Mỹ đều có “Thảo Mộc Thực Hội”.
Có nhiều người có thành kiến
sai lầm rằng: ăn thịt cá, mới có đủ sức mạnh. Thật ra, người ăn thịt không có
sức mạnh và sức chịu nhọc dẻo dai bằng người ăn chay trường. Chính Giáo sư
Irwin Fischer ở Ðại học đường Yale, sau nhiều cuộc thí nghiệm, đã long trọng
tuyên bố rằng:
- Ăn thịt hay
ăn những vật có nhiều chất đạm, sẽ làm cho con người không đủ sức chịu nhọc,
không khác nào như người uống rượu.
Bà White, một bác học gia
cũng đã tuyên bố rằng:
- Các thứ hột,
các thứ trái cây, đậu và rau cải là những thức ăn mà thiên nhiên đã dành để
nuôi chúng ta. Các thức ăn ấy nấu nướng một cách giản dị, thì rất hợp vệ
sinh và rất bổ. Nó làm cho thân thể tráng kiện, tinh thần sáng suốt và
tránh biết bao nhiêu bệnh tật.
I.
Cách Thức Ăn Chay
1.
Chương trình ăn chay
Mặc dù sự ăn chay đối với
người Phật tử là một điều cần thiết, một phương pháp tu hành nhưng muốn được
lợi ích thiết thực, cần phải có phương pháp, và áp dụng một cách tuần tự theo
căn cơ và sở nguyện của mình. Trước tiên, không phải người Phật tử nào cũng có
thể bỏ hẳn ngay tập quán ăn mặn của mình để ăn chay. Vì thế, trong đạo có chia làm
hai loại: ăn chay kỳ và ăn chay trường.
a) Ăn chay kỳ. Ăn chay kỳ là ăn có kỳ hạn
nhất định trong mỗi tháng hay mỗi năm:
Nhị trai: Ăn 2 ngày chay trong mỗi
tháng vào ngày mồng một và rằm âm lịch.
Tứ trai: Ăn 4 ngày chay trong tháng:
mồng một, mồng tám, rằm và hăm ba.
Lục trai: Ăn sáu ngày chay trong tháng
là: mồng một, mồng tám, mồng bốn, rằm, mười tám, hăm ba, hăm bốn, hăm tám, hăm
chín và ba mươi (nếu tháng thiếu thì 27, 28, 29).
Nhất nguyệt trai: Là ăn một tháng chay vào
tháng giêng hay tháng bảy.
Tam nguyệt trai: Là ăn ba tháng
chay: Tháng giêng, tháng bảy và tháng chín (hay tháng mười); hoặc ăn liên tiếp
trong ba tháng.
Nếu tập ăn chay kỳ trong một
thời gian mà không gặp một phản ứng nào về thân, tâm và nhận thấy có lợi ích,
thì nên lần đến ăn chay trường.
b) Ăn chay trường. Ăn chay trường hay trường
trai là ăn toàn chay luôn trong môic ngày, không gián đoạn cho đến hết đời.
Nếu mỗi ngày, phát tâm không
ăn sau 12 giờ trưa, thì gọi là ngọ trai.
2.
Phương pháp thực hành
a) Chọn lựa thay đổi thức
ăn. Ðể ăn cho được
lâu dài và không ngán, chúng ta nên chọn những món ăn có nhiều sinh tố, bổ
dưỡng như: cà chua, rau muống, đậu nành, nấm rơm, cải bắp, khoai tây, nếp lức
v.v…và những món ăn cũng phải thay đổi luônẦ
Vậy trong một bữa ăn, cần
phải ăn những món gì để bữa ăn có đầu đủ chất bổ và ngon miệng? Dưới đây là vài
bữa ăn kiểu mẫu:
Trái cây cùng ăn với cơm hay
bắp, bột mì và rau, cải, đậu phụng rang.
Sữa tươi cùng ăn với trái
cây ngọt và cơm, bắp hay bột mì.
Các món ăn chính nói trên là
cần thiết, nhưng cũng cần thêm gia vị như hột cải cay, tiêu ớt, giấm v.v…để
giúp bộ máy tiêu hóa làm việc d dàng. Nhưng nếu dùng gia vị quá nhièu thành ra
có hại, như làm cho bộ máy tiêu hóa nóng, sing bệnh hay làm kích thích cơ thể.
b) Cách nấu. Thức ăn là cần thiết nhưng
cách nấu cũng quan trọng; chúng ta đừng có quan niệm sai lầm là đã ăn chay thì
nấu thế nào cũng được cả, không cần thiết là phải quan tâm đến. Nếu thức ăn bổ
mà không biết cách nấu, thì cũng làm cho nó hết bổ, và có khi làm hại bộ máy
tiêu hpá nữa. Dưới đây là vài điều nên nhớ trong khi nấu ăn:
Không nên chiên xào nhiều
quá, vì sinh tố B và C sẽ bị dầu sôi tiêu diệt và các món có nhiều dầu làm cho
bao tử mệt.
Nên ăn đồ nướng, nhất là
nướng không có thoa dầu.
Khi nấu hay luộc phải nên
đậy nắp để sinh tố khỏi bị mất và nên đổ ít nước để chất bổ khỏi loãng. Và nước
luộc ấy rất tốt, không nên đổ đi, vì nó chứa rất nhiêu chất bổ và sinh tố.
c) Giảm thịt cac dần dần
trong những ngày ăn mặn. Ðối với những người ăn chay
kỳ thì khi ăn mặn, nên mua những vật người ta làm sẵn, hoặc làm giảm bớt số
lượng thịt cá, ăn nhiều rau cải, sữa, tạm dùng trứng gà, trứng vịt không tượng
con.
Khi đã tinh tấn về mặt tinh
thần, không nên ăn trứng gà, trứng vịt, vì trứng cũng là một sanh vật sắp nảy
nở.
3. Những điều cần tránh
a) Không nên kiêu mạn. Người có phúc duyên ăn chay
được d dàng, không nên sanh lòng kiêu mạn, tự cho mình là hơn người, và khinh
người ăn mặn. làm như thế đã sanh ác cảm với người mà lại còn làm tổn âm đức
của mình nữa.
b) không nên háo danh. Có người mới bước vô đường
đạo, đã ăn trường trai ngay, cốt để người khác khen ngợi. Ăn chay như thế là do
lòng háo danh mà ra; hạnh động này không có lợi cho sự tu hành mà lại còn có
hại: khi không còn ai khen ngợi nữa, thì không thấy hứng thú để tiếp tục ăn
chay nữa.
c) Không nên ép xác. Có người tưởng lầm rằng: ăn
chay là để hành hạ thân xác, nên cố ăn một cách cực khổ, như chỉ ăn ròng rã
tương rau, muối sả…từ năm này sang năm khác. Ăn như thế thì sẽ hao mòn thân xác
và chết yểu trước khi thành đạo.
d) Không nên giả mặn. Có nhiều bà nội trợ muốn trổ
tài khéo léo của mình bằng cách nấu chay mà giả mặn, rồi đặt tên món ăn mặn,
hay làm ra những hình thức giống như đồ mặn. Thí dụ như: củ hủ cao, củ hủ dừa
kho mà gọi là cá tra kho; bắp chuối luộc trộn giấm và rau răm, lại đặt tên thịt
gà xé phay; bí đao xắt mỏng cặp gắp nướng ăn với bánh hỏi mà lại đặt tên là
thịt bò lụi v.v….
Như thế, là đã vô tình xúi
giục người ăn chay nghĩ đến món mặn, miệng ăn rau dưa, mà lòng tưởng nhớ đến
thịt cá, làm trò cười cho thế gian.
đ) Không được quên ngày chay. Không nên khinh thường quên
những ngày chay mà mình đã phát nguyện, dù gặp trường hợp bất thường như đi lỡ
đường, làm việc quá buổi, lúc đói quá mà không có sẵn thức ăn chay.
e) Không nên dùng ngũ vị tân. Ngũ vị tân là: hành, hẹ,
tỏi, nén, hưng cừ không nên dùng, vì các thứ này đã hôi, lại có nhiều chất kích
thích lòng dục vọng.
IV.
Lợi Ích Của Sự Ăn Chay
1. Phương diện cá nhân
Những lới ích của sự ăn chay
đối với cá nhân rất lớn lao. Người ăn chay không những thâu hoạch được những
lợi ích trong hiện tiền mà cả trong đời sống tương lai nữa.
a)
Trong hiện tại, người ăn chay
được hưởng lợi ích sau đây:
Tiết kiệm được tài chánh, vì
đồ ăn chay rẻ hơn đồ ăn mặn.
Tiết kiệm được ngày giờ và
công lao nấu nướng, vì mướp, dưa, bầu bí, khoai…cắt rửa mau và ít tốn nước; và
kho kho, luộc, nấu nướng lại mau chín, ít hao củi.
Thân thể được mạnh khỏe;
tinh thần được nhẹ nhàng, trong sạch; trí tuệ được minh mẫn dể tu thiền quán.
b)
Trong đời sau, không chịu quả
báu giết hại, nên không phải trả nợ máu thịt, khỏi phải thường mạng. Nếu trở
lại làm người, thì được trường thọ.
2. Phương diện xá hội, nhân
loại, chúng sanh
Ăn chay không những có lợi
ích cho cá nhân, mà còn cho xã hội, nhân loại, chúng sanh nữa. Nếu ai ai cũng
ăn chay thì thế giới Ta Bà này làm gì có tiếng rên siết vì chết oan của oài vật
và tiéng than thở, đau đớn của người vì nạn tương tàn, tương sát.
Một nhà Bác học có nói:
“Muốn thế giới hòa bình, bắt đầu trong bữa ăn con người phải không có một chút
máu hay một miếng thịt cá nào cả”.
Câu nói đầy đạo đức này cũng
đồng một ý nghĩa với câu nói của Cổ nhân:
“Nhất thế chúng sanh vô sat
nghiệp,
Hà sầu thế giới động đao
binh”.
(Nếu tất cả chúng sanh không
sát hại lanã nhau, thì sợ gì thế giới có giặc giã).
Người ăn chay là một chiến
sĩ của Hòa bình. Thật vậy người ăn chay, với một tâm từ bi vô lượng, coi muôn
loài là mình, mình là muôn loài, không giết hai sanh vật để thỏa mãn dục vọng,
không bao giờ nỡ tâm tàn sát đồng loại để đạt mục đích lợi danh.
Nếu trong xã hội, ai ai cũng
ăn chay, thì đâu có những chuyện gây gỗ, đánh đập nhau, như chúng ta thường
thấy hằng ngày.
Nếu trong một nước, ai ai
cũng ăn chay thì không có chuyện mạnh hiếp yếu, khôn lán dại, chém giết lẫn
nhau để thỏa lòng dục vọng.
Nếu trong thế giới, ai ai
cũng ăn chay, thì thế giới này là Cực lạc thế giới.
Kết Luận
Mọi Người Dù Phật Tử Hay
Không Ðều Nên Ăn Chay
Như chúng ta đã thấy ở các
đoạn trên, xét về phương diện khoa học hay Phật học, về phương diện cá nhân hay
đoàn thể, về hiện tại hay tương lai, sự ăn chay đều có rất nhiều lợi ích.
Vì vậy, những người không
phải là Phật tử , nếu muốn thân thể được mạnh khỏe, tinh thần được khinh an,
trí tuệ được minh mẫn để học tập; nếu muốn tiết kiệm được tài chánh, công lao,
thời giờ, nếu muốn gia đình được hòa thuận yên vui, thì hãy mau mau làm quen
với những thức ăn chay.
Còn những ai đã àl Phật tử ,
đã nguyện theo bước chân của đức Từ phụ, thì phải thực hành phép ăn chay, để
lòng Từ bi được mở rộng, tinh thần bình đẳng được lan xa, trí tuệ được tỏ ngộ,
đạo quả được chóng viên thành.
Vẫn biết, nói d mà làm khó;
nhưng một người tiến bộ và có thiện chí, khi đã thấy rõ những điều lợi ích, thì
dù khó bao nhiêu cũng quyết thực hành cho được. Sự thực hành ấy không phải làm
ngay trong một lần, mà phải tuần tự tiến bước.
Nếu chúng ta biết áp dụng
phép ăn chay đúng như những cách thức đã nói ở trên, thì thiết tưởng không có
gì là khó lắm. Ðiều quan trọng nhâùt là chúng ta thật có thiện chí hay không mà
thôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét