I.-Mở Ðầu
Thiền tôn thuộc cả Ðại Thừa và Tiểu
Thừa, cũng như bao nhiêu tôn phái khác trong Phật Giáo, vị khai sáng đầu tiên
của Thiền tôn vẫn là đức Phật. Trước Ngài , sự tham thiền nhập định của các
ngoại đạo không phải là không có. Nhưng đến Ngài, phương phápthiền định mới đạt
đến chỗ rốt ráo.
Như chúng ta đều biết qua lịch sử cúa Ngài, sau khi xuất gia,
đức Phật đã trải qua nhiều năm đi tìm đạo và tu khổ hạnh, nhưng vẫn chưa đạt
được đạo quả như ý muốn. Ngài tự bảo cái đạo ấy không phải đi tìm đâu xa mà
chính phải tìm trong trí huệ sáng suốt của Ngài . và từ đó, luôn trong 49 ngày
đêm dưới cội Bồ Ðề, Ngài đã ngồi thamthiền nhập định cho đến khuya mồng 8 tháng
chạp âm lịch, lúc sao mai vừa mọc thì Ngài “Minh tâm kiến tánh”, chứng được đaọ
quả Bồ -đề,. Ðó là một cuộc nhập định vô tiền khoáng hậu, mở đầu cho một pháp
môn vô cùng hiệu nghiệm của đạo Bồ đề. Và từ đấy về sau, một tôn giáo riêng đã
được thành lập. Ðó là Thiền tôn.
Sao gọi là Thiền tôn?-Thiền tôn là
một tôn phái của Phật Giáolấy pháp môn tham thiền nhập định làm căn bản tu
hành.
Chữ “Thiền ” là do chữ “Thiền-na”,
một tiếng Phạn, phiên âm theo tiếng Trung Hoa và dịch nghĩa là định lự ( định
các tự lự). Hiệp chungcả tiếng Phạn và tiếng Trung Hoa, thành ra chữ Thiền
định.
Có chỗ giải: Chữ ” Thiền”, xưa dịch
tư là ” tư duy”, nay dịch là ” Tịnh lự”. Tư duy có nghĩa là suy nghiệm, nghiên
cứu, suy tầmnn đối tượng của tâm thức ( tức là chỉ) để cho tâm thể được sáng
tỏ.
Chữ “Ðịnh” nguyên tiếng Phạn là
Samadhi, người Trung Hoa phiên âm là Tam muội, nghĩa là tập trung tư tưởng vào
một cảnh duy nhất không cho tán loạn.
Hợp hai chữ Thiền và Ðịnh, chúng ta
có một nghĩa chung như sau:Tập trung tư tưởng vào một đối tượng duy nhất, không
cho tán lọan, để cho tâm thể được vắng lặng, tâm dụng được sáng tỏ, mạnh mẽ, đặng
quan sát và suy nghiệm chơn lý.
Phương pháp thiền định có hai cách:
1.-Tham cứu về lý thiền, để cầu minh tâm kiến tánh, tỏ ngộ đạo quả, nên gọi là ”
Tham thiền”, như tham cứu câu thoại đầu (câu nói thiền) v.v..
2.-Tập trung tư tưởng để quan sát
cho sáng tỏ chân lý về một
vấn đề gì như quán bất tịnh, quán từ bi v.v..nên củng gọi là ” Quán tưởng”.
Có chỗ gọi là
tu ” Chỉ quán”hay tu” Ðịnh huệ”. Chỉ là đình chỉ các vọng tưởng, không cho khởi
động, tưc là định. Quán là quan sát cho sáng tỏ một vấn đề gì tức là Huệ.
“Chỉ” là nhơn,
mà “Ðịnh là quả.
” Quán là
nhơn”, mà “Huê ” là quả.
Chủ Trương Của Thiền Tông
Tất cả chúng
sinh, trãi qua bao đời kiếp, phải trôi lăn trong biển khổ sanh-tử luân hồi vì
bị vô minh mê hoặc.
Tại sao lại có
vô minh mê hoặc? chúng ta hằng ngày bị thất-tình (1), lục-dục (2), bát phong
(3), xuy động, làm cho tâm tánh chúng ta phải bị mờ ám; cũng như ngọn đèn bị
thổi leo lét, không sáng tỏ được, để phá tan cái hắc ám ở chung quanh và soi
sáng cảnh vật. Ðèn tâm của chúng ta không giờ phút nào chẳng bị gió lục-trần
(4) làm chao động. Vì đèn tâm chao động (không định) nên ánh áng trí huệ không
thể tỏa ra; và ánh sáng trí huệ không tỏ sáng, nên khỗng xé tan được mây
vô-minh hắc ám ở chung quanh và không chiếu soi chơn lý của vũ-trụ.
———————————————————-
(1) Thất-tình:
Mứng, giận, thương, sợ, yêu, ghét, muốn.
(2) Lục-dục:
Những sự tình dục do lục-căn sanh ra.
(3) Bát-phong:
Lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc.
(4) Lục-trần:
Sáu trần-cảnh là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Vậy hành-giả
muốn rỏ chơn lý của vũ trụ, muốn được minh tâm kiến tánh thành Phật, thì phải
phá trừ mây vô minh hắc ám. Muốn phá trừ vô minh hắc ám, hành-giả phải làm sao
cho đèn trí huệ của mình được sáng tỏ. Muốn thế hành-giả phải tu thiền-định.
Tâm có định, mới phát sinh trí-huệ. Trí-huệ có phát sinh mới phá trừ được vô
minh hắc ám, và với minh tâm kiến tánh thành Phật.
Mới nghe qua chủ trương của Thiền-tôn,
chúng ta thấy không có gì mới lạ, và tưởng là dễ dàng quá; nhưng khi thực hanh
thì lại không phải dễ dàng như thế. Trái lại, phép tu thiền-định rất khó, phải
thường có thiện-hữu tri-thức dắt-dẫn, phải tốn rất nhiều công phu và kiên-nhẫn,
phải trải qua một thời gian lâu dài, mới thu được kết quả.
II.-Các Loại
Thiền Ðịnh
Thiền-định có
nhiều loại, nhiều thứ. Có thứ chánh, thứ tà, có thứ sâu, thứ cạn, có thứ thiền
của ngoại-đạo, có thứ thiền của phạm-phu, có thứ thiền của Tiểu-thừa, có thứ
thiền của Ðại-thừa.
Hãy nghe Ngài
Tôn-Mật Thiền-sư dạy:
” …Người
muốn cầu Thánh-đạo, tất phải tu thiền ”. Chơn-tánh không có dơ và sạch, thánh
và phàm. Song thiền-định có cạn và sâu, từng bực không đồng:
- Người tà-kiến, chấp trước sao lạc, ưu cõi trên, chán cõi dưới mà tu Thiền
là ngoại đạo thiền;
- Người chánh tín nhơn quả, nhưng cũng dùng sự ưa cõi trên chán cõi dưới má
tu thiền, là phàm phu thiền;
- Người biết rõ lý ” ngã không” mà tu thiền là Tiểu-thừa thiền;
-Người ngộ được lý”ngã, pháp dều không” mà tu thiền, là Ðại-thừa thiền;
-Người đốn ngộ tự tâm, xưa nay vốn thanh-tịnh, không có phiền não, đầy đủ
trí huệ vô-lậu, tâm ấy tức là Phật, rốt ráo không khác; y theo tâm ấy mà tu
thiền là Tối Thượng thừa thiền, củng gọi là ”chơn như tam muội”
Vì thiền có
nhiều loại khác nhau như thế, nên trước khi muốn thực hành cho đúng đắn chúng
ta cần biết sơ lược các lối tu thiền, để khiỏ lạc vào đường nguy hiểm.
1.- Ngọai Ðạo Thiền
Trong phần
ngoại đạo thiền này, chúng tôi muốn nói đến các loại thiền của ngoại đạo như
đạo Tiên, đạo Bà la môn, các lối thôi miên, và những tà thiền định với mục đích
không chơn chánh.
Sao gọi là
không chơn chánh? -Theo quan niệm của đạo Phật thì những hành động gì không
nhằm mục đích trau dồi tâm tánh, dẹp trừ phiền não hữu lậu, để cầu giải thoát
sanh tử luân hồi, đều không là chơn chánh. Dựa vào quan niệm trên mà phê phán
thì những tà thiền định hay những loại thiền định của ngoại đạo đều không chơn
chánh; vì những người tu theo lối thiền định nầy chỉ nhắm mục đích cầu được
sống lâu, cầu được khỏe mạnh, được thần thông biến háo để dạo chơi thế
giới,được những phép lạ, huyền bí để cám dỗ, mê hoặc người, hay được thần tiên
để hưởng lạc thú tiêu diêu nơi tiên cảnh…
Bởi họ dụng tâm
không chơn chánh, tu phương pháp không chơn tánh, nhắm mục đích thiển cận, bề
ngoài và bị các phiền não tham, sân, si, làm động cơ thúc đẩy, nên các laọi
thiền của họ không rốt ráo và toàn thiện được. Trước tiên chúng ta hãy nói đến
các tà thiền định.
1.- Tà thiền
định:
Ðọc các loại
sách xua, chúng ta thường nghe nói đến các loại cầm thú như: bạch xà, chồn cáo,
qui, khỉ, vượn…tu luyện lâu năm trong rừng sâu núi thẳm, cuối cùng củng có
những phép thần thông, biến hóa. Nhưng mục đích của chúng là cầu cho được nhiều
phép tắc để được ggần phụ nữ, nhiễu hại nhơn dân, hớp hồn hớp via người lương
thiện, để thỏa mãn thú tánh. Ðó là những loài yêu tinh quỷ quái, mà ngày nay
theo con mắt nhà khoa học thì khó có thể tin được là có. Nhưng có lẽ những
người xưa muốn đặt ra câu chuyện yêu tinh quỹ quái như thế, để ngụ ý các loài
thú, nếu tu luyện lâu năm củng có thể phép thuật hơn người. Nhưng bởi chúng
thiếu lòng nhân, thiếu thiện tâm cho nên phéúp thuật càng cao cường bao nhiêu
càng gây tai họa bấy nhiêu.
Chúng ta củng
thường nghe thầy phù thủy luyện thiên linh cái (đầu lâu). Họ củng tập trung tư
tưởng, luyện phép tịnh tâm, và khi thành tâm, và khi thành công củng sai được
âm binh bộ hạ, được ma quỷ mách bảo cho các việc quá khứ, vị lai …mà củng tác
oai, tác oai không ít.
Ðó cũng là do
tu định cả, nhưng bởi dụng tâm tà, nên gọi là thiền định, và kết quả là có hại
cho mình và nhân quần xã hội.
Chúng ta hãy
nghe lời Phật dạy.Ngài A-Nan trong kinh Lăng nghiêm về các lồi tà thiền định:
” ..A-Nan! Nếu ông tu thiền định mà không đoạn lòng dâm, thì quyết đọa vào
ma đạo, bực thượng thành ma chúa, bực trung thành ma dân bự hạ làm ma nữ. Vì
gốc của nó là dâm, thì làm sao khỏi sanh tử luân hồi được?. “
”…A-Nan ! Nếu ông tu thiền định mà không đoạn đoạn tân sát hại, thì chỉ đạo
vào thần đạo; bực thượng thành đại lực quỉ, bực trung làm phi hành dạ xao và
các quỉ tướng soái, bực hạ làm địa hành La sát và các quỉ thần…”
”…A-Nan ! Nếu ông tu thiền định mà không đoạn trừ tâm trộm cướp thì quyết
đọa vào tà đạo; bực thượng thành loài yêu tinh, bực trung làm ma quỉ, bực hạ
làm người tà bị các tà ma nhập (đồng bóng)…”.
2.-Thiền định
của đạo Tiên:
Theo các kinh
sách của đạo tiên để lại, như kinh Huỳnh-đình, hay bộ Tánh mạng khuê chỉ
v.v..thì con người sở dĩ sống được và minh mẫn là nhờ có đử ba món: tinh, khí
và thần. Tinh , khí là chủ cúa xác thân; Thần là chủ của mạng sống. Hể tinh
thần lục dục quá mạnh thì tinh khí hao mòn: tinh khí hao mòn thì thân bị che
lấp tối tăm, con người mất sáng suốt. Vì thế cho nên phải trừ dục tình để dưởng
tinh, luyện khí cho thân được cởi mở và phát hiện.
” Tiên đạo cho
rằng khắp giáp thân thể con người đều có những cái huyệt, tức là những lỗ thông
khí âm dương; huyệt ở chót bàn chân gọi là chi âm; huyệt ở đỉnh đầu là thiên
thông. Khí đi trở lên là dương khí, khí di xuống là âm khí.
Người tu tiên
cốt luyện cho âm khí mất đi, chỉ còn cái khí thuần dương đi lên đỉnh đầu, tức
là có thần thông và đắc đạo. Vì sao phải trừ bỏ khí âm? Bởi vì âm khí là trược
khí, làm cho nặng nề, tối tăm, ưa thích điều dâm dục , làm hao tổn tinh thần.
Hể tinh thần hoằng dương tổn thì cái thần là cái linh động sáng suốt nhất, cũng
là cái thông hiệp với trời đất, bị bế tắc”. Vậy nên, kẻ phàm là kẻ còn nặng khí
âm, còn bậc tiên chỉ còn là khí thuần dương mà thôi (1).
”Ðể luyện khí,
người tu tiên có nhiều phép tu gần giống như phép tọa thiền, nghĩa là ngồi ở
một nơi thanh tịnh, rồi tập luyện các phép như: ”Tọa công”, ”Giao thiên trụ”,
”Thiệt giải thấu yết”.v.v..
Tóm lại những
người tu theo đạo này, nếu chuyên tâm trị chí tập trung tư tưởng, luyện ”Tinh”
hóa ”Khí”, luyện ”Khí” hóa ”Thành”, sau khi đã thuần thục, cũng được năm phép
thần thông biến hóa. Họ trở thành tiên, có thể xuất thần bay đi dạo chơi các
Thế giới. Hoặc họ hứng nước mặt trăng, luyện linh đơn để trị bệnh hay để uống
cho được trường sinh bất tử thành địa tiên.
Những vị tiên
này, rất tiếc là ngày nay, chúng ta không được thấy nên không dám chắc là có
hay không. Nhưng dù có có đi nữa, thì trên lý thuyết, các vị này vì chưa được
lậu tận thông, ”phiền não hữu lậu chưa hết” nên khi phiền não rối lên họ cũng
bị đọa trở xuống, khi trường hợp ông Uất-Ðầu-Lâm-Phách, hay ông Ðộc
-Giác-Tiên-Nhân.v.v…Hơn nữa dù họ có luyện cái thân mình cho được trường sanh
bất tử cũng không thể toại nguyện được, vì cái thân này là tứ đại giả hiệp, tất
phải bị luật vô thường chi phối, không thể sống vĩnh viễn được. Nó lại là cái
đãy gia chứa các vật bất tịnh thì dù có cưng dưỡng cho mấy rốt cuộc rồi cũng bị
tan rã. Bởi lẽ đó người tu hành phải xem nó như cái bè đưa qua sông, khi qua
sông rồi, chẳng nên mến tiếc cái bè mà chẳng chịu lên bờ.
Trong bộ
Qui-nguyên Trực chỉ, có kể chuyện ông tiên Lữ Ðồng Tân, học trò của Tiên Hớn
Chung Ly, sau khi đấu phép với NgŽài Huỳnh Long hòa thượng bị thua, ông đã bỏ
đạo Tiên theo đạo Phật. Lý do sự đầu Phật là vì ông Lữ Ðồng Tân tự nhận thấy
mình đã dụng tâm sai và đã đi lầm đường tu hành. Do đó, ông đã làm bài thơ sau
đây để nói lên sự sai lầm của ông:
Nguyên văn:
Khí khước biều nan, kích tý cầm
Như kim bất luyến hống trung câm
Từ tùng nhất kiến Huỳnh long hậu
Thì giác tùng tiên thố dụng tâm
Dịch nghĩa:
Bỏ lầu Linh dược ném đờn cầm.
Tôi nay chẳng tiếc nước miếng vàng (2)
Từ khi gặp Huỳnh Long hòa thượng
Mới biết từ trước dụng tâm sai.
(xem quyển Lữ Ðồng Tân đầu Phật)
(1) “Yoga và tọa thuyền” trong đại
chúng tuần sau, số 219
3.-Luyện Du già
(Yoga).
Yoga là một
danh từ Ấn, gốc là chữ Yuj; Tàu dịch là Du già, nghĩa đen là ”tự đặt mình dưới
một cái ách”; nghĩa bóng là ”tự trói buộc cả tinh thần, thể xác vào một quy
luật khắc khe” tự kiềm chế mình theo một kỷ luật đặc biệt, mà mục đích là tập
trung toàn thể thân tâm làm một với bản thể của trời đất.
Du già cũng gọi
là thuật luyện khí của Ấn độ, gần giống thuật luyện khí của đạo Tiên. Theo
thuyết Du già trong thân thể con người có rất nhiều huyệt; trong số ấy có bảy
huyệt từ hậu môn lên tới đỉnh đầu là quan trọng nhất. Bảy huyệt ấy nằm dài theo
xương sống, và có một đường lên một đường xuống thông nhau. Vì sự si mê và các
thứ dục vọng che lấp cho nên bảy huyệt ấy bị chướng ngại, khiến cho cái ”chơn
quả” từ dưới ”hỏa hậu” (chổ hậu môn) không thể lên được. Nhất là vì thân thể
không luyện tập, xương sống bị cong đi, các huyệt do đó bị bế tắc. Vậy muốn cho
hoả hậu (tức là cái thần lực trong con người) được thông qua các huyệt, lên tới
đỉnh đầu thì phải chú tâm luyện cho xương sống giản ra, các khớp xương được
thông và thẳng.
Ðể đạt được mục
đích nói trên, người luyện Du già phải tập nhiều tư thế, như tư thế ”giản lưng
” tư thế ”lưỡi cày”, tư thế ”trồng chuối” (trút đầu xuống dưới, trở chân lên
trên trời), để cho hỏa hậu dể lưu thông tới đỉnh đầu.
Ngày nay Du già
được phổ biến qua các nước Âu -Mỹ, gần như một phong trào. Phần đông cho đó là
một phương pháp thể dục, để luyện cho thân thể được khỏe mạnh, trí huệ được
sáng suốt, để tính toán và làm việc được nhiều và hiệu quả. Một số người đi xa
hơn, muốn luyện Du già để được sống lâu, trẻ mãi, vượt ra khỏi những sự đòi hỏi
của xác thân đầy dục vọng, thoát ra ngoài những nỗi lo âu, sợ sệt hằng ngày và
sống một cuộc đời an vui, tự tại. Lại có một hạng người khác mong rằng Du già
sẽ làm cho họ khám phá những năng lực tiềm tàng ẩn núp trong con người và làm
cho họ trở thành những nhân vật phi thường, có những thần thông biến hóa, phép
mầu chước lạ, họ cũng tập trung tư tưởng, định tâm chú ý như các lối tu thiền
định; ngoài ra họ còn có tu tập một cách rất khổ sở, hành hạ thân xác, bắt nó
chịu đựng những thử thách cực độ, như phơi nắng dầm sương, ngồi trên chông gai,
đứng bằng hai tay, treo chân lên cổ, nhịn đói, nhịn khát,v.v…đó là những đạo sĩ
người Ấn Ðộ thường gọi là ”pha-kia” (fakir).
Những người này
khi tu đến mức độ cao, cũng có được những phép lạ, như dao chém không đứt, đâm
không thủng, nhai ve chai, uống axit không sao, nằm ngũ một giấc luôn trong 3
tháng không ăn, không uống .v.v…
Nhưng dù họ thành
công bao nhiêu đi nữa, thì cũng không thể thoát ngoài vòng trần tục liễu xanh
thoát tử và minh tâm kiến tánh được
”Yoga và tọa
thiền” trong Ðại chúng tuần san, số 219
”nước miếng
vàng: đối với người tu Tiên, thì nước miếng rất quí họ không bao giờ nhổ vì sợ
tổn khí, và dùng nước miếng của mình để luyện linh dược.
(1) Nước miếng
vàng: Ðối với người tu tiên, thì nước miếng rất qúy, họ không bao giờ nhổ vì sợ
tổn khí, và dùng nước miếng của mình để luyện thành linh dược
4.- Luyện thôi
miên.
đây cũng là một
lối tu thiền của ngoại đạo, hiện nay rất thịnh hành trên thế giới. Nguyên tắc
của phương pháp tu luyện này cũng là vận dụng tập trung tư tưởng vào một chỗ để
cho tinh thần có sức mạnh sai khiến được sự vật. Người tập thôi miên, lúc mới
đầu ngồi yên một chỗ, nhìn chăm chú vào một chấm đen vẽ ở trên tường, để cả tâm
trí tập trung vào đó, ngoài ra không còn để ý vào một sự vật gì ở chung quanh
nữa. Họ ngồi tập hàng giờ như thế, bao giờ tinh thần không còn tán lọan nữa, và
có đủ sức mạnh để sai sử kẻ khác là họ thành công. Những người thôi miên giỏi,
có thể dùng thôi miên để trị lành bệnh hay sai sử những người khác làm những
chuyện phi thường, như xuất thân đi đến một xứ khác để thăm bà con, kể lại việc
quá khứ hay tiền thân của một người khác.v.v…
Tóm lại, nhờ
luồng điện tinh thần đã được tập trung thành sức mạnh, người thôi miên có thể
bắt người khác làm những việc kỳ lạ theo ý muốn của mình. Nhưng vì lợi dụng,
tâm không chơn chánh, chỉ tham cầu những điều huyền bí, mầu nhiệm bên ngoài,
không lo dẹp trừ phiền não, hữu lậu, trau dồi tâm tánh bên trong, để được minh
tâm kiến tánh nên không phải là chánh đạo. Ðến khi phiền não hữu lậu nỗi lên
hoặc nhiễm sắc tham tài.v.v…thì các thần thông, diệu dụng đều mất hết. Bởi thế
nên Phật dạy các đệ tử: ”ngộ được đạo thì tự nhiên sẽ có các thần thông. Nếu
được thần thông mà chưa ngộ được đạo thì thần thông ấy có khi bị mất”.
2.- Phàm
Phu Thiền.
Phàm phu thiền
cũng gọi là thế gian thiền. Sở dĩ gọi là phàm phu hay thế gian thiền là vì các
pháp thiền này chưa có thể đưa hành-giả ra ngoài tam giới, chưa chứng được
thánh quả, mà vẫn còn quanh quẩn trong vòng phàm phu hay thế gian. Các pháp như
Tứ thiền, Tứ không.v.v…đều thuộc phàm phu thiền.
1.- Tứ thiền
tức là 4 giai
đoạn tham thiền của phàm phu, đi dần từ chổ nhàm chán cái vui thô thiển đến cái
vuivi tế thanh tịnh. Bốn giai đoạn tham thiền này tuần tự diễn tiến như sau:
a.-Sơ thiền, ly
sanh hỷ lạc.
Hành giả khởi
đầu bằngg tâm lý nhàm chán cái ô trược của cỏi Dục, và mong cầu được xa lìa(ly)
được cái ô trược của Dục giới, hành giả sanh vui mừng (sanh hỷ lạc). Ðó là kết
quả của giai đoạn tham thiền đầu tiên (sơ thiền).
b.- Nhị thiền,
định sanh hỷ lạc.
Nhưng cái vui
nói trên, lại làm cho tâm chao động, cần phải dứt trừ; vì thế hành giả phải vào
định. Khi định có kết quả, cái vui mừng thô phù của sơ thiền chấm dứt và cái
vui mừng vi tế trong định lại nãy sanh; vì thế cho nên gòila” Ðịnh sanh hỷ
lạc”.
c.-Tam thiền, ly hỷ diệu lạc.
Cái vui mừng ở cõi nhị thiền mặc dù
vi tế, nhưng vẫn còn làm cho tâm rung động, vì thế hành giạlai cần bỏ cái vui
mừng ở cõi nhị thiền. Khi bõ được cái vui mừng này, thì một nỗi vui mầu nhiệm
khác lại phát sinh; vì thế cho nên gọi”Ly hỷ diệu lạc”.
Trong các kinh thường chép:Cõi tam
thièn là vui hơn hết (diệu lạc), vì ở các cõi dưới thì chỉ có vui thô động, còn
ở các cõi trênthì chủ là tịch tịnh, không còn vui nữa.
d.-Tứ thiền, xả niệm thanh tịnh.
Ở cõi tam thiền, tuy đã hết cái vui
thô đọng của Sơ thiền và Nhị thiền; nhưng vẫn còn cái vui mầu nhiệm. Nhưng hễ
còn niệm vui, thì tâm chưa hoàn toàn thanh tịnh. Hành giả lại phải còn tiến lên
một bậc nữa, đi vào cái thiền thứ tư, xã luôn cả cái niệm vui, để tâm được hoàn
toà thanh tịnh, vì thế nên gọi là”Xã niệm thanh tịnh”.
2.-Tứ không định.
-Sau khi đã trãi qua Tứ thiền và đã
thành tựu viên mãn, hành giả tiếp tục tu thiền định và sẽ trãi qua bốn giai
đoạn gọi là tứ không định sau đây. Sở dĩ gọi là tứ không, vì khi vào bốn định
này, thiên giả sẽ không còn thấy có cảnh thức tâm nữa.
a) Không vô biên xứ định.
Thiền giả khi đã đạt được tứ thiền,
tâm đã được hoàn toàn thanh tịnh, nhung vaãn còn thấy có sắc giới, còn thân còn
cảnh và bị nhình săc trói buộc, nên sanh tâm nhàm chán. Ðể rời bỏ các hình sắc
về thân và cảnh, thiền giả vào định thứ nhất của tứ không, thể nhập với “Hư
không vô biên”,tức là không thấy có ngăn cách, có biên giới của cảnh.
b) Thức vô biên xứ định.
Thiền giả khi đã định thứ nhấtcủa tứ
không, rời bỏ được sắc tướng của thân và cảnh, thaáy được cái vô biên của hư
không, nhưng vẫn còn giữ cái bản ngã hẹp hòi, vẫn còn thấy biên giới của tâm
thức; khi thành tựu, tức thể nhập được vào cõi”Thức vô biên”.
c)Vô sỏ hữu xứ định:
Thiền giả ,mặc dù không còn thấy
biên giới, ngăn cách của thức nhưng vẫn còn thấy có ngã, có tâm thức, có năng
sở;mà hễ còn thấy năng sở, tức con thấy mình và người , còn thấy có sở hữu. Vậy
thiền giả phải vượt lên một tầng nữa, xa lìa sự chao động, năng sở, tức nhập
định”Vô sở hữu xứ” (cõi không sở hữu).
d)Phi tưởng, phi phi tưởng xứ định.
Thiền giả khi đã nhập định”Vô sở
hữu”, không còn thấy nhân ngã, năng sở, nhưng vẫn còn “tưởng”. Mà còn tưởng thì
còn vọng động. Vậy thiền giả phải tiến lên một tầng nữa, vào cõi “Ðịnh không
tưởng”. Nhưng không tưởng đây, không có nghĩa là vô triều vô giác như đất đá;
không tưởng, nhưng không phải không tưởng của đất đá,. Không tưởng mà vẫn sáng
suốt như một tấm gương, nhưng không phải là một tấm ván hay mặt đá. Ðó là ý
nghĩa của cõi định” Phi tưởng , phi phi tưởng”.
Có chỗ nói định” Tứ không” thuộc về
ngoại đạo , nhưng người tu thiền, bắt đầu từ Sơ thiền đến Tam thiền, lúc baáy
giờ có hai con đường tẻ: Một con đường đi về ngũA-na-hàm (1) ở cõi tứ thiên(2)
thuộc về cảnh giới của thánh thứ ba (3); một con đường đi về tứ không của cõi
Vô sắc, thuọc về ngoại đạo.
(1) Ngũ A-Na-Hàm là năm cõi A-Na-Hàm:a) Vô phiền, b).vô
nhiệt, c). thiện kiến, d).thiện hiện, đ)sắc cứu cánh.
(2) Tứ thiền có chín cõi ngoài năm cõi A-na hàm, còn có bốn
cõi: Vô vân,phước sanh, quảng quả, vô tưởng.
(3)Tiểu Thừa thanh văn có bốn quả thánh A-na hàm thuộc quả
thánh thứ ba
3.-Nhị Thừa Thiền
Nhị Thừa ay Tiểu-thừa thiền, thuộc
về xuất thế gian thiền , nghĩa là các người tu theo các loại thiền nầy có thể
vượt ra ngoài thế gian, thoát được sanh tử luân hồi. Tuy thế, nnx pháp tu thiền
nầy không đem lại một kết quả mau lẹ, lớn lao toàn diên như các lối Ðại-thừa
thiền, mà chỉ có tánh cách chậm chạp, tuần tự, cuộc bó, tu một pháp chỉ trừ
được phiền não; nghĩa là chứng quả thấp nhỏ, có hạn lượng, nên thuộc về Nhị
thừa thiền (Nhị thừa thiền là Thinh văn thừa và Duyên giác thừa).
Nhị thừa thiền có rất những phương
pháp tu, như Ngũ đình tâm quán, Thập thứt thế xứ quán, Bát hồi quả, Bát thắng
xứ quán, Cửu tưởng quán, Thập lục đặng thắng, Lục diệu pháp môn, Tứ vô lượng
tâm, Thông minh thiền, Bát niệm, Thập tưởng, Tứ đệ định, Sư tử phấn tấn, siêu
việt tam muội, Ba mươi bảy phẩm trợ đạo..tóm lại, hành quả của Nhị thừa thiền
có thể đem giáo-lý của một hay những pháp môn của Nhị thừa để tham sát tham
thiền.
Trong phạm vi hẹp hòi của bai phổ
thông nầy, chúng tôi không thể nói hết tất cả pháp môn tu thiền của Nhị thừa
được, xin nói sơ lược mọt ít phương pháp . nếu hành giả muốn đi sâu vào con
đường tu này, phải chuyên môn học tập, phải nhờ minh sư dạy bảo, phải trải qua
nhiều thời gian và nhiều công phu tu tập mới thành công.
1. Ngũ đình tâm quán:
-
Quán tổ
sức, trừ tâm toán loạn
-
Quán bất
tịnh, trừ tâm tham sắc dục
-
Quán từ
bi, trừ tâm sân hận
-
Quán nhân duyên, trủ tân si mê
-
Quán giới phân biệt, trừ tâm chấp ngã.
(xem Phật học
phổ thông, khóa thứ IV)
2.- Cửu tưởng
quán:
a.-Tưởng thây sình tướng
b.-Tưởng thây hoại diệt
c.-Tưởng máu mủ chảy
d.- Tưởng thây rục rã
đ.- Tưởng thây xanh chàm
e.- Tưởng thây bị giòi rúc rỉa
ê.-Tưởng thây tan rã
g.- Tưởng còn lại đống xương
h.-Tưởng xương bị đốt tiêu.
3.- Tứ vô lượng
tâm:
a.-Tâm vô từ vô lượng: Thiền giã vờ mỡ
rộng lòng vô từ vô lượng, bao bọc chúng sanh trong tình thương rộng lớn vô
biên.
b.-Tâm bi vô lượng: Thiền giã vờ mỡ
rộng lòng bi vô lượng, cứu khổ cho chúng sanh trong năm đường.
c.-Tâm hỷ vô lượng: Thiền giã vờ mỡ
rộng tâm Hỷ (hoan hỷ) vô lượng, làm cho chúng sanh đều được Hỷ.
d.-Tâm xã vô lượng: Thiền giã vờ mỡ
rộng lòng Xã vô lượng, không lưu luyến cố chấp một việc gì.
Tứ vô lượng tâm
là một pháp môn rất linh nghiệm: Phàm phu tu tứ vô tâm lượng, thì sau khi mạng
chung sẽ sanh làm vua ở cỏi Tứ thiền; Nhị thừa tu Tứ vô lượng tâm, thì phước
đức được tăng trưởng, mau dặng Niết bàn, bồ tát tu Tứ vô lượng tâm thì lòng từ
bi mở rộng vô biên và làm lợi ích cho chúng sanh không xiết kể .
(xem Phật học phổ thông, khóa thứ IV)
4.- Thập lục
đặc thắng:
thập lục đặc
thắng tức là mười sáu phép rất đặc biệt thù thắng, có thiền có quán, có đủ các
thiền và có thể phát sanh ra quả vô lậu, không phải như Tứ thiền, ứ không,
không ra khỏi sanh tử. Mười sáu phép đặc biệt thù thắng này là:
a.- Biết hơi thở vào
b.- Biết hơi thở ra
c.- Biết hơi thở dài ngắn
d.- Biết hơi thở thắp thân
đ.- Trừ các thân hạnh
e.- Thọ hỷ
ê.- Thọ lạc
f.- Thọ các tâm hạnh
g.- Tâm tác hỷ
h.- Tâm tác nhiếp
i.- Tâm tác giải thoát
k.- Quán vô thường
l.- Quán xuất tán
m.- Quán ly dục
n.- Quán diệt
o.- Quán phí xả.
5.- Thông minh
thiền:
Thông minh
thiền tức là tham thiền để được lục thông và tam minh.
a.-Lục thông tức là sáu phép thần
thôngnhư:thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, thần túc thông, túc
mạng thông, lậu tận thông.
b.-Tam minh tức là thiên nhãn minh,
thiên nhĩ minh, lậu tận minh.
6.- Thập nhứt
thế xứ quán:
thập nhứt thế
xứ quán tức là phép quán mười món biến khắp các xứ sở, sau đây:
a.- Quán sắc xanh, khắp giáp tất cả chổ
b.- Quán sắc vàng, khắp giáp tất cả chổ
c.- Quán sắc đỏ, khắp giáp tất cả chổ
d.- Quán sắc trắng, khắp giáp tất cả
chổ
đ.- Quán đất, khắp giáp tất cả chổ
e.- Quán nước, khắp giáp tất cả chổ
ê.- Quán gió, khắp giáp tất cả chổ
g.- Quán lửa, khắp giáp tất cả chô
h.- Quán hư không khắp giáp tất cả chổ
ụ
i.- Quán thức tâm, khắp giáp tất cả chổ
7.- Bát bối xã
quán:
Bát xã quán yức
là tám phép quán có thể trái bỏ (bối xả) cảnh giới Tứ thiền, tú định của thế
gian, dể thành tựu pháp xuất thế gian. Tám phép bối xả quán là:
a.- Trong có sắc tướng, ngoài quán sắc
để trái bỏ cảnh giới Sơ thiền.
b.-Trong không sắc tướng, ngoài quán
sắc, để bỏ cảnh giới Nhị thiền .
c.- Quán thanh tịnh để trái bỏ cảnh Tam
thiền và Tứ thiền .
d.- Quán trái bỏ Hư không vô biên xứ.
Ð.- Quán trái bỏ Thức vô biên xứ
e.- Quán trái bỏ Vô sớ hữu xứ
ê.- Quán trái bỏ Phi tưởng, phi phi
tưởng xứ.
f.- Quán trái bỏ diệt thọ tưởng.
8.- Bát thắng
xứ quán:
thắng có nghĩa
là thù thắng, là hơn. Tám phép quán nầy về cảnh sở quán, cũng như công đức thu
thập được trong khi thu hành, đều thù thắng hơn tám món Bối xã trên, nên gọi là
”Bát thắng xứ quán”’.
a.- Trong có sắc tướng, ngoài có ít
sắc, thắng xứ.
b.- Trong có sắc tướng, ngoài quán
nhiều sắc, thắng xứ
c.- Trong không sắc tướng, ngoài quán
ít sắc ,thắng xứ
d.- Trong không sắc tướng, ngoài quán
nhiều sắc, thắng xứ
đ.- Quán sắc xanh, thắng xứ
e.- Quán sắc vàng, thắng xứ
ê.- Quán sắc đỏ, thắng xứ
f.- Quán sắc trắng, thắng xứ
9.- Lục diệu
pháp môn:
Lục diệu pháp
môn là sáu phép môn mầu nhiệm sau đây:
a) Số. b) Tùy. c) Chỉ. d) Quán. e) Hoàn. f) Tịnh.
(Xem quyển Lục Diệp pháp môn)
10.- Bát niệm
xứ:
Với phép quán
tám niệm sau nầy,thiền giả sẽ trừ đượcsự sợ hãi khi tu cửu tưởng và sẽ được đạo
quả
a)Niệm Phật. b) Niệm pháp . c) Niệm
tăng. d) Niệm giới. f) Niệm xả. g) Niệm hơi thở ra vào. h) Niệm chết(nhớ chết).
11.- Thập quán
tưởng:
Thập quán tương
gồm có:
a). Tưởng vô thường, b). Tưởng khổ, c), Tưởng vô ngã , d).
Tưởng ăn vật bất binh, đ). Tưởng thế gian không vui, e). Tưởng chết, f). Tưởng
bất tịnh, g). Tưởng đoạn, h). Tưởng lìa, i). Tưởng hết.
12.- Cửu thế đệ định:
Cửu thế đệ định là 9 món thiền-định
mà thiền-giả sẽ tùaan tự theo thứ lớp tu-luyện: từ Sơ-thiền đến Tứ-thiền, rồi
đến Tứ-định, và cuối cùng, cộng thêm định Diệt-thọ-tưởng là chín món tất cả.
13.- Sư-tử phấn tấn Tam-muội:
Với pháp thiền này, hành-giả bắt đầu
tham-thiền như pháp Cửu-thứ-đệ định nói ở trên, nghĩa là bắt đầu từ Sơ-thiền
đến thiền-định thứ chín là Diệt-thọ-tưởng định, rồi đi ngược trở lại, từ thiền
thứ chín đến Sơ-thiền. Thiền-giả tới lui trong thiền-định một cách thông suốt,
tự-tại, đường hoàng, oai nghi như dáng đi đứng, tiến thoái của con sư-tử, nên
gọi là ”Sư-tử phấn tấn tam-muội ”. Kết quả của lối thiền này, nếu được hòan
toàn siêu-việt thì thiền-gỉa sẻ là Bồ Tát. Nếu không hoàn-toàn tự-tại và chưa
siêu-việt thì thành Thanh Văn.
14.-Ba mươi bảy pháp trợ đạo:
Thiền-giả cũng có thể lấy một
pháp-môn hay nhiều pháp-môn trong số 37 pháp trợ-đạo để tham-thiền, tu-luyện.
Ba mươi bảy pháp trợ-đạo đã có nói rỏ trong Phật-học Phổ-thông khóa ba. Ơí đây,
chúng tôi chỉ xin nhắc qua để quý độc-giả nhớ lại thôi:
a). Ngũ căn
b). Ngũ lực
c). Tứ chânh cần
d). Tứ như ý túc
đ). Tứ niệm xứ
e). Thất Bồ-đề phần
ê). Bát chánh đạo phần.
Kết Luận Về Nhị Thừa Thiền
Các pháp tu thiền của Nhị-thừa hay
Tiểu-thừa nói trên, như quý độc-giả đã thấy, nhiều không thể kể xiết. Tuy thế,
hành-giả muốn cho có kết quả, phải chọn lựa phương pháp nào thích-hợp với trình-độ
của mình, chứ không phải gặp pháp môn nào tu theo pháp-môn nấy được. Sự
lựa-chọn nầy cũng cần được các bậc thầy hướng-dẫn. Vì-thế, chúng ta thường nghe
ngày xưa các vị chaan tu đi ” cầu pháp ”, hết xứ nầy đến xứ nọ, không quản công
lao khó-nhọc, có nhiều khi hy-sinh cả tính mạng nữa. Cầu pháp nghĩa là tìm cầu
minh sưchỉ dạy phương-pháp tu hành, như Ngài Thiện-Tài đi tham-cầu 53 vị
Thiện-triều-thức, Ngài Huyền-Trang đi khắp nước Trung Hoa rồi sang Ấn Ðộ để cầu
Pháp. Hành-giả sau khi được vị minh-sư nhận lời, còn phải theo hầu hạ một
thời-gian rất lâu để vị minh-sư ấy quan sát, thăm dò căn cơ, trình độ một cách
chu đáo, như Ngài Xá-lợi-phất đem pháp Sổ-tức dạy người giữ nghĩa-địa, hay pháp
quán Bất-tịnh dạy người thợ rèn tu, thì chỉ hoài công vô ích, chứ không kết-quả
gì hết.
Hành-giả cũng nên nhớ một đe\iều
nữa, là trên bước đường tu hành chớ nên bôn-chôn, nóng-nảy vô ích. Sự tu hành
củng như trồng cây, không theẻ nóng nảy được. Người trồng cây, lo vô phân tưới
nước, làm đây đủ bổn phận của mình, rồi kiên-nhẫn chờ đợi; đến khi đủ sức đúng
thời tiết, cây sẽ tự đơm bông trổ trái một cách tự nhiên.
Người tu hành củng vậy, cứ hằng ngày
lo tu tập, tích-trữ nhiều năm, đến khi công tròn quả mãn, thì được mminh tâm
kiến tánh.
Hãy nhớ rằng tu-hành phải trải qua nhiều
đời nhiều kiếp, chứ không thể mới một hai đời mà thành Phật được.
4.- Ðại Thừa Thiền
Ðại-thừa Thiền là pháp tu thiền bực
của Ðại-thừa, củng gọi là xuất-thế-gian thượng thượng thiền. Pháp thiền này chỉ
dành riêng cho những người thượng căn rất thông-minh và lanh-lợi tu. Những bực
Ðại-thừa Bồ Tát đã nhiều đời nhiều kiếp tu hành, phá hết các phiền nảo
thô-trược, chỉ còn vi-tế vô-minh, nếu kiếp này gặp được minh-sư chỉ giáo cho
phép tu Ðại-thừa thiền nầy, thì sẽ được ttỏ ngộ. Cũng như cành hoa sắp nở, chỉ
thêm chút ít công phu vun tưới, thì hoa sẽ trổ ngay. Yếu-tố căn bản của
Ðại-thừa thiền là trí-huệ. Thiền-giả phải lấy trí-huệ để tự quan sát tamm-tánh.
Nếu thiếu trí-huệ, thiền-giả khó được kết-quả khi tu theo Ðại-thừa thiền.
Các Pháp Thiền Ðịnh Của Ðại Thừa
Các pháp thiền-định của Ðại-thừa rất
nhiều như: Pháp-hoa tam-muội, niệm Phật tam-muội, Ban châu tam-muội, Giác ý
tam-muội, Thủ-tăng-nghiên tam-muội, Tứ-tánh-thiền, Nhứt-thế-thiền, Nhứt thế môn
thiền, Thiện nhơn thiền,, Nhứt tế hạnh thiền, Trừ phiền-não thiền, Thử thế tha
thế thiền, Thanh-tịnh tịnh thiền, Tự-tánh thanh-tịnh thiền, Như lai tối thượng
thừa thiền, Ðat-ma sư-tổ thiền .v.v.
Dưới đây chúng ta hãy nghiên cứu qua
một số pháp thiền-định thông thường của Ðại-thừa.
1.- Sao gọi là ” Pháp hoa tam-muội
”?
Phương pháp nay dựa theo kinh Ðại
phẩm Bát-nhã. Hành-giả tu pháp này, tâm ý giác-ngộ tất cả các pháp và được
vô-sanh-nhẫn (độc giả nào muốn rỏ thêm, hảy xem lời bình luận của Ngài
Trí-Giả-Ðại-Sư).
4.- Sao gọi là ” Thủ nghiêm tam muội
”?
Phương-pháp này căn cứ theo kinh
Thủ-lăng-nghiêm. Hành-giả phải nhận chân rằng các pháp đều từ thưc-thể như là
Như-Lai-Tạng tamm mà tùy duyên biến-hiện, như huyễn, như hóa. Hiểu rỏ các pháp
đều như huyễn như hóa, rồi dựa theo lý ấy mà tham-thiền nhập-định, nên cũng gọi
là như hiển tam-muội.
5.- Sao gọi là ” Tự-tánh thiền, Nhứt
thế thiền, nan thiền .v.v..”?
các món thiền như ”Tự tánh thiền,
Nhứt thế thiền, Nan thiền, Nhứt thế môn thiền. Thiện nhơn thiền, Nhứt thế hạnh
thiền, Trừ phiền não thiền, Thử thế tha thế thiền, Thanh- tịnh tịnh thiền ”,
gồm cả thảy chín món và được gọi là Ðại-thừa thiền.
Sở dĩ, gọi các món thiền naylaf
Ðại-thừa thiền, vì các vị Bồ Tát nhờ y theo các món thiền này mà tấn tu làm nên
được công-hạnh rộng lớn, thắm sâu không thể lường được (độc giả nào muốn hiểu
rỏ thêm, hảy đọc quyễn ” Pháp giới thứ đệ sang môn ” do Ngài Trí-Giả Ðại-Sư
soạn).
6.- Sao gọi là ” Trực-chỉ thiền ”?
Trực-chỉ thiền là pháp thiền chỉ
thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật, không dùng phương-tiện tu quán và cũng
không cần kinh giáo.
7.- Sao gọi là ” Như-lai thanh-tịnh
thiền”?
Như-lai thanh-tịnh thiền là pháp
thiền thanh-tịnh của Như-lai. Như chúng ta đã biết, Ðức-Phật Thích-Ca trước khi
chưa thành đạo, đã ngồi tham-thiền 6 năm dưới gốc cây Bồ- đề. Sau khi phá trừ
hết vô minh phiền-não, tâm được thanh tịnh, Ngài chứng được đạo Bồ-đề. Do đó,
phép thiền này được gọi là ” Như-lai thanh-tịnh thiền”.
8.- Sao gọi là ” Như-lai
Tối-thượng-thừa thiền ”?
Ðây là phép thiền cao-siêu hơn tất
cả các phép thiền mà đức Như-lai đã ứng-dụng.
9.- Sao gọi là
Ðạt-Ma Tổ-Sư thiền ”?
Như chúng ta
nghe, Ngài Ðạt-Ma sau khi từ Ấn Ðộ sang Trung Hoa truyền đạo, đã ngồi xây mặt
vào tường chín nằm, tại chùa Thiếu-Lâm để thamm-thiền. Ðat-Ma Tổ-sư thiền tức
là phép thiền mà Ngài đa xtu luyện ở chùa Thiếu-Lâm vậy.
Các phép thiền
của Ðại-thừa, như quý độc-giả đã thấy ở phần trên, tuy nhiều không kể xiết,
tựu-trung có thể chia làm hai loại lớn:
1.- Một loại
thường gọi là tam-muội, căn cứ theo kinh sách của Phật Tổ truyền dạy mà tu tập, có tu có quán, có
phương-pháp nhất định, như Pháp-hoa tam-muội, Niệm Phật tam-muội, Ban-châu
tam-muội, Giác-ý tam-muội, Thủ-tăng-nghiêm tam-muội v.v…Các loại tam-muội này
vì có quy củ, có phương pháp nhất định và được phổ biến bằng văn tự, tương đối
ít khó khăn và bí hiểm hơn loại thư hai mà chúng tôi sắp nói dưới đây, nên được
nhiều người tu luyện và số người thành tựu cũng nhiều.
2.- Một loại
thứ hai, được truyền dạy không căn-cứ theo kinh-giáo, không có văn tự, tức là loại thiền ” giáo ngoại biệt
truyền, bất lập văn-tự ”, như các pháp ” Trực-chỉ thiền, Như-lai thanh-tịnh
thiền, Tự-tánh thanh-tịnh thiền, Như-lai tối-thượng thừa thiền, Ðạt-Ma Tổ-sư
thiền v.v…Với loại thiền này là người ngộ trước dùng tâm giác-ngộ của mình để
ấn-chứng cho người sau giác ngộ. Ðó tức là loại thiền ” Dĩ tâm ấn tâm, trực chỉ
nhơn tâm kiến tánh thành Phật ”: Vị minh-sư dùng tâm mình đễ tiếp xúc với tâm
đệ tử, truyền thẳng sự giác ngộ của mình qua tâm của đệ-tử; như dùng ngộn đèn
sáng chói mà tâm mình mã bừng phát ra để chiếu vào tâm đệ-tử; và tâm này cũng
lại nhờ ảnh hưởng trực-tiếp của sự giác-ngộ của thầy mà bừng sáng lên và truyền
nối từ thầy đến trò, từ đời này sang đời khác. Loại thiền náy tức là loại thiền
đa xây dựng truyền nối từ Ðức-Phật Thích-Ca xuống cho đến Ngài Lục-tổ. Ðây là
một lối ” truyền đạo” hay ”truyền đăng” trực tiếp linh động chính thống, nhưng
không phổ biến như lối trên, vì mỗi đời chỉ truyền cho mỗi người, chứ không thể
truyền cho nhiều người trong một lúc được. Và người được ấn chứng phải là một
vị có trí-huệ xuất chúng, siêu phàm không ai sánh kịp.
Cách truyền dạy
pháp thiền này có hai lối:
a). Tham cứu một câu thoại đầu. Thoại đầu là một câu nói thiền hay ” công-án”, nghĩa là một
đề án hay luận án gồm một câu rất ngắn, nhưng y-nghĩa sâu-xa, đối với người
thường không hiểu được.
Khi một vị Tổ của phái Thiền-Tôn này
nhận thấy trong hàng đệ-tử của mình có một vị xuất chúng, có thể giữ giềng mối
đạo tiếp nối sự nghiệp của Thiền-tôn và tỏ ngộ đạo mầu được, thì vị Tổ trao cho
vị đệ-tử ấy một câu thoại-đầu (một luận-án, như bây giờ, các vị bác sĩ hay tiến
sĩ, trước khi ra trường, phải nạp cho ban giám khảo). Vị đệ-tử này, đêm ngày
tham cứu câu thoại-đầu ấy, có nhiều khi trải qua một thời gian mười năm hoặc
mười lăm năm mới tỏ ngộ được. Sau khi xét thấy đệ-tử của mình đã tỏ ngộ đạo mầu
rồi, vị Tổ-sư mới ấn chứng cho.
b). Nhưng nhiều khi vị Tổ-sư lại
không trao cho đệ-tử của mình một câu thoại-đầu để tham cứu, mà lại dùng
những hình thức rất lạ-lùng, người thường khó có thể hiểu được như : đánh,
hét, ra dấu, mời ăn cơm, uống nước trà v.v…chẳng hạn; như có một vị đệ-tử đến
cấu đạo với một vị Tổ-sư, vị này không nói gì cả, chỉ dùng Thiền-tượng (roi
thiền) đánh dập vị đệ-tử kia, để xem sự phản ứng ấy như thế nào. Do sự phản ứng
mà vị Tổ-sư biết được vị đệ-tử kia đã giác ngộ hay chưa.
( Xem Pháp Bảo Ðàn Kinh).
Tóm lại, pháp thiền này rất là màu
nhiệm, không thể nghĩ bàn được, cho nên người xưa có nói: ” Thiền cơ huyền
diệu” ( máy thiền mầu-nhiệm). Các vị Tổ-sư trong khi truyền đạo, không dựa theo
một nguyên tắc, một phương pháp gì nhất định cả. Các Ngài tùy theo thời cơ mà
ứng-biến, nghĩa là quan sát căn cơ của người cầu đạo, xét đã đúng thời chưa, và
phải dùng phương pháp gì cho vị đệ-tử kia được ngộ đạo, rồi các Ngài tùy cơ lập
pháp. Tất nhiên phương-pháp này các Ngài dùng chỉ trong nhất thời thôi. Do đó, mà
không thể biết trước được các Ngài sẽ dùng phương-pháp gì để truyền thọ.
Về sau cũng có người bắt chước những
phương-pháp như đánh, hét v.v…nhưng vì không biết quán thời cơ, nên chỉ làm cho
người đau và sợ mà thôi, chứ không có hiệu quả gì.
Hệ Thống Truyền Thừa Của các Tổ
Trong Phái Thiền Tông Tại Ấn Ðộ
1.-Ngài Ma Ha Ca Diếp, Sơ-tổ của
Thiền-tôn ở Ấn Ðộ:
trong kinh Phạmthiên vấn Phật quyết
nghi và trong bộ “Thích nghi kê cổ ” quyển nhất,chùa chép đại khái như sau: khi
Phật ở hội Linh Sơn, có ông Ðại Phạm Thiên Vương, đem hoa sen dâng cúng Phật.
Phật cầm cành hoa sen lên để khai thị cho đại chúng (thiền cơ). Tòan thể chúng
hội đều yên lặng, không ai hiểu thâm ý của Phật như thế nào. Duy có Ngài Ma Ha
Ca Diếp là tỏp ngộ được thiền cơ của Phật, nên đổi sắc mặt vui vẻ, chúm chím
mỉm cười (phá nhan vi tiếu). Ðức Phật nhận thấy, liền ấn chứng (chứng nhận) cho
Ngài Ca-Diếp được đắc truyền và làm tổ thứ nhất (Sơ tổ ở Ấn Ðộ) Phật tuyen bố
như sau:
Nguyên văn:
Ngô hữu
chánh pháp nhãn tạng
Niết bàn
diệu tâm, thật tướng vô tướng,
Vi diệu
pháp môn, kim phú Ma Ha Ca Diếp
Dịch nghĩa:
Ta
ương”chánh pháp nhãn tạng”,cũng gọi là Niết bàn diệu tâm”, cũng tên là thật
tướng vô tướng” cũng gọi là “Vi diệu pháp môn”, nay ta truyền cho ông Ma Ha Ca
Diếp.
Sau đó, Phật truyền y bát và nói bài
kệ truyền pháp như sau:
Nguyên văn:
Pháp pháp
bổn vô pháp
Vô pháp
pháp, diệc pháp
Kim phú vô
pháp thời
Pháp pháp
hà tằng pháp.
Dịch nghĩa:
Các pháp
vốn không pháp
Không pháp
cũng là pháp
Nay truyền
cái vô pháp (vô tướng)
Vô pháp
nào có pháp.
Ðây là nguồn gôc phát khởi Thiền
tôn, lấy tâm truyền tâm (dĩ tâm ấn tâm) không dùng kinh giáo và phương tiện.
2.- Ngài A-Nan, Tổ thứ hai của Thiền
tôn ở Ấn Ðộ:
một hôm Ngài A-Nan hỏi Ca-Diếp:
- Ngòai
việc truyền y bát, đức Thích tôn còn truyền pháp gì riêng cho Ngài nữa không?
Tổ Ca-Diếp gọi to:
- A-Nan !
Ngài A-Nan:
Dạ !
TỔ dạy tiếp:
- Cây sào phướn trước của chùa ngã !
Ngài A-Nan liền tỏ ngộ Thiền cơ, nên
được tổ Ca-Diếp truyền y bát và ấn chứng cho làm vị tổ thứ hai. (xem Phật học
từ điển, trang 1638 về mục “Ca-Diếp can sát”).
Từ Ngài A-Nan trở về sau, có thêm 26
vị Tổ về Thiền tôn nữa. Cộng cả Ngài Ca-Diếp và Ngài A-Nan, ở Ấn Ðộ có cả thảy
là 28 vị Tổ, thứ lớp tuần tự như sau:
1 .- Tổ Ma Ha Ca Diếp
2. Tổ A-Nan
3. Tổ Thương-Na Hòa-Thứ
4. Tổ Ưu-Ba Cúc Ða
5. Tổ Ðề-Ða-Ca
6. Tổ di giá ca
7. Tổ bà tu mật
8 Tổ Phật Ðà Nan Ðề
9 Tổ Phục Ðà Mật Ða
10 Tổ Hiếp Tôn Giả
11 Tổ Phú Na Giạ Xa
12 Tổ Mã Minh
13 Tô ừCa Tỳ Ma La
14 Tổ Long Thọ
15 Tổ Ca Na Ðề Bà
16 Tổ La Hầu Na Ða
17 Tổ Tăng Già Nan Ðề
18 Tổ Già Ða Xá Ða
19 Tổ Cưu Ma La Ða
20 Tổ Xà Giạ Ða
21 Tổ Bà Tu Bàn Ðầu
22 Tổ Ma Noa La
23 Tổ Hạc Lặc Na
24 Tổ Sư Tử
25 Tổ Bà Xá Tư Ða
26 Tổ Bát Như Mật Ða
27 Tổ Bát Nhã Ða La
28 Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma.
(Theo truyện Phú Pháp Tạng Nhơn duyên)
Hai mươi tám vị
tổ này được làm rực rỡ cho Phật Giáo ở Ấn Ðộ, chứ không cho riêng gì Thiền Tôn
Phật Giáo sau này được lan rộng trên toàn cầu, một phần lớn do công đức của 28
vị Tổ này. Ngày nay khi nhắc đến những tên như Ma Ha Ca Diếp, A Nan, Hiếp Tôn
Giả, Mã Minh, Long Thọ, không một Phật tử nào là không biết đến. Và sự kiện này
chứng tỏ rằng phần lớn các vị Tổ có tiếng tăm đều ở trong Phật Thiền Tôn. sự
nhận xét này không những được chứng minh ở Ấn Ðộ, mà cả đến Trung Hoa, Nhật-Bản
và đến Việt-Nam nữa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét