A-Mở Ðề:
Cảnh giới Ta bà của chúng ta
là một cảnh giới đầy mê mờ và dục vọng. Chúng ta đang lặn hụp trong bể nước mắt
củađau khổ và bùn nhơ của dục vọng, sống trôi lăn trong cảnh ấy, chúng ta khó
thấy được bến bờ sáng sủa, yên ổn để lội vào. Thật là đáng thương cho thân phận
con người chúng ta.
Nhưng bản nguyện chúng ta
đâu có thế! Chúng ta, từ vô thỉ, ở nơi nguồn chơn vắng lặng, sáng suốt vô cùng.
Vì một niệm bất giác, khởi vô minh vọng tưởng, nên chúng ta bị quay cuồng trong
sanh tử, trôi nổi trong ba cõi sáu đường.
Vậy thì trong chúng ta ai là
người không muốn thoát ra khỏi cõi đen tối, sầu đau này, để dược trở về nguồn
trong sáng, an vui?. Nhưng làm sao để thoát ra được? Ai sẽ là kẻ rủ lòng thương
để đưa đường chỉ lối cho chúng ta? Ai là người có đủ phương pháp thần diệu để
giúp chúng ta ra khỏi sinh tử luân hồi?
- Ðấng cao cả sáng suốt và
đầy đủ năng lực ấy không ai khác hơn làÐức Phật Thích Ca Mâu Ni, người đã chứng
quả bất sanh, bất diệt; và chỉ có Giáo pháp của Ngài mới cứu được chúng sanh ra
khỏi vô thường đau khổ.
Vậy chúng ta còn ngần ngại
gì nữa mà chẳng chịu quy y Tam-Bảo.
B- Chánh Ðề:
I – Ðịnh Danh Và Giải Nghĩa.
1- Quy-y nghĩa là gì? Quy là trở về;
Y là nương tựa, Quy-y là trở về nương tựa nơi mà mình đã vì si mê, phóng đãn
lià bỏ ra đi, như đứa trẻ khờ dại đã rời bỏ cha mẹ để ra đi trong hoan phá, bây
giờ biết sự dại khờ do kinh nghiệm khổ đau, quay trở về
nương tựa lại dưới bóng hạnh phúc và yêu thương của cha mẹ. Chữ Quy-y nguyên dịch nghĩa là kính vâng hay phục tòng.
nương tựa lại dưới bóng hạnh phúc và yêu thương của cha mẹ. Chữ Quy-y nguyên dịch nghĩa là kính vâng hay phục tòng.
2- Tam bảo nghĩa là gì? Tam bảo là ba ngôi báu:
PHẬT, PHÁP, TĂNG.
Ở thế gian, vàng bạc, ngọc
ngà và danh vọng là quí báu. Nhưng sự thật, vàng bạc, danh vọng đâu có cứu được
con người khỏi khổ, sống, già, bịnh, chết, mà lắm khi còn làm cho con người
thêm khổ nữa! Còn Phật, Pháp, Tăng thì có đủ năng lực dắt dẫn con người ra khỏi
những cái khổ nói trên. Bỡi thế, người đời mới tôn sùng Phật Pháp, Tăng là ba
ngôi báu (Tam Bảo).
a) PHẬT:
Chữ Phật do chữ Phạn Bouddha phiên âm ra. Tàu dịch là Giác Giả nghĩa là: Bực đã
giác ngộ sáng suốt hoàn toàn về ba phương diện: Tự giác, giác tha, giác hạnh
viên mãn.
b) PHÁP: Pháp là
do chữ Phạn Dharma mà dịch nghĩa ra. Pháp là phuơng pháp tu hành mà Phật đã
phát huy ra để diệt trừ mọi mê muội, khổ đau và chứng được quả Phật. Ba Tạng
Kinh Ðiển đều gọi chung là Pháp.
c) TĂNG: Tăng hay Tăng
già là do chữ Phạn Shanga mà phiên âm ra; Tàu dịch là: Hòa hợp chúng, nghĩa là
một đoàn thể tu hành từ bốn người sắp lên, cùng nhau sống chung một chỗ, đồng
giữ giới luật cu Phật, đồng chia sớt cho nhau một cách hòa thuận những gì đã
thâu nhận được, từ vật chấc đến tinh thần.
3- Quy-y Tam-bảo là thế nào? – Quy-y Tam-bảo là trở về
nương tựa ba ngôi báu: PHẬT, PHÁP, TĂNG.
Tại sao phải Quy-y Phật? – Vì Phật là đấng hoàn toàn
sáng suốt, từ bi vô lượng, phước huệ vô biên, đức hạnh viên mãn; – Vì Phật là
người dẫn đường vĩ đại nhất, đã có cái kinh nghiệm bản thân thoát ra ngoài vòng
sanh tử để chứng Ðạo.
Tại sao quy-y Pháp? – Vì chỉ có phương pháp của
Phật là đầy đủ công năng để đưa chúng ta qua khỏi bể khổ, đến bờ giải thoát.
Tại sao lại quy-y Tăng? - Vì Tăng là người đã hy
sinh gia đình, tiền của, danh vọng… để tình nguyện theo Phật dắt dẫn chúng sanh
trên đường Ðạo.
II- Ba Bực Tam Bảo
Tam Bảo có ba bực:
- Ðồng thể Tam bảo,
- Xuất thế gian Tam bảo,
- Thế gian trụ trì Tam bảo.
- Ðồng thể Tam bảo,
- Xuất thế gian Tam bảo,
- Thế gian trụ trì Tam bảo.
1 – Ðồng Thể Tam Bảo
a) Ðồng Thể Phật Bảo: tức là nói tất
cả chúng sanh cùng chư Phật dồng một thể tánh sáng suốt.
b) Ðồng Thể Pháp Bảo: tức là nói tất
cả chúng sanh cùng chư Phật đồng một pháp tánh từ bi bình đẳng.
c) Ðồng Thể Tăng Bảo: tức là nói tất
cả chúng sanh cùng chu Phật đồng một thể tánh thanh tịnh, sự, lý hòa hợp.
2 – Xuất Thế Gian Tam Bảo
a) Xuất Thế Gian Phật Bảo: là chỉ cho Ðức
Phật Thích Ca Mâu Ni, Ðức Phật A-Di-Ðà, Chư Phật trong mười phương ba đời, đã
tự giải thoát ra khỏi sự ràng buộc của thế gian.
b) Xuất Thế Gian Pháp Bảo: là chỉ cho Chánh pháp của
Phật, có công năng làm cho chúng sanh thoát khỏi sự ràng buộc của thế gian, như
Tứ-đế, Thập-nhị nhân-duyên, Lục -độ v.v…
c) Xuất Thế Gian Tăng Bảo: là chỉ cho các
vị Thánh-Tăng đã thoát ra ngoài sự ràng buộc của thế gian như đức QuánThếÂm,
Ðại Thế Chí, Văn Thù, Ca-Diếp, A-Nan v.v…
3- Thế Gian Trụ Trì Tam Bảo
a) Thế Gian Trụ Trì Phật
Bảo, là chỉ cho XaLợi của Phật, tượng Phật đức bằng kim khí, chạm trổ bằng danh
mộc, tô bằng đất, đắp bằng xi măng, thêu bằng vải, hay vẽ trên giấy.
b) Thế Gian Trụ Trì Pháp
Bảo, là chỉ cho ba tạng Giáo điển: Kinh, Luật, Luận viết hay in trên giấy, trên
vải trên lá buôn v.v…
c) Thế Gian Trụ Trì Tăng
Bảo, là chỉ các vị TỳKheo, TỳKheoNi tu hành chơn chánh, đạo đức trong sạch,
giới luật trang nghiêm trong hiện tại.
III- Sự Quy y Tam Bảo
Sau khi đã hiểu rõ thế nào
là Quy-y Tam bảo, tất nhiên phải thực hành sự hiểu biết ấy.Thực hành bằng sự
tướng cung kính, vâng theo Tam-bảo, như thế gọi là sự quy-y Tam-bảo.
1 – Sự Quy-Y Phật: Hằng ngày chúng ta phải nhớ
tưởng luôn đến Phật, niệm danh hiệu Phật, chiêm ngưỡng tượng Ngài, và nguyện
suốt đời theo bước chân Ngài, ấy là sự quy-y Phật.
2 – Sự Quy-Y Pháp: Hằng ngày tụng
đọc Kinh, Luật, Luận; sớm hôm hai thời công phu, tìm hiểu nghĩa lý thâm huyền
của Pháp bảo. Khi đọc tụng Kinh điển tâm trí ta không nghĩ xằn bậy, không nhớ
tưởng những việc không hay, không bàn mưu tính kế để lợi kỷ, tổn nhơn. Chúng ta
trừ bỏ được dục vọng, tâm trí được sáng suốt, an lành, thanh tịnh.
3- Sự Quy-Y Tăng: Thế gian thường
nói: “Trọng Phật, phải kính Tăng”. Cho nên, nếu chúng ta thành tâm thờ Phật bao
nhiêu, thì chúng ta phải thật dạ kính Tăng bấy nhiêu. Người thực hành sự quy-y
Tăng, hễ thấy người đầu tròn áo vuông, chân chính
tu hành, giữ gìn giới luật, thì liền kính nể, quý trọng, xem như đó là vị đại diện cho Ðức Phật. Làm như thế là sự quy-y Tăng.
tu hành, giữ gìn giới luật, thì liền kính nể, quý trọng, xem như đó là vị đại diện cho Ðức Phật. Làm như thế là sự quy-y Tăng.
Tóm lại, thờ Phật, tụng
Kinh, giữ Giới, nghiên cứu Phãt pháp, kính trọng Tăng già chân chính, dó chính
là sự quy-y tam-bảo.
IV- Lý Quy y Tam Bảo
Lý là bên trong. Lý quy-y
Tam-bảo nghĩa là quy-y Tam-bảo trong tâm chúng ta. Nếu chúng ta chỉ thực hành
sự quy-y, chỉ dong ruổi theo Tam-bảo bên ngoài, mà quên lý quy-y, nghĩa là quên
Tam-bảo bên trong tâm chúng ta, thì chúng ta chưa thực hành
đúng nghĩa Tam-quy. Thật thế, bên trong tâm chúng ta cũng có đủ Tam-bảo. Chúng ta cần thực hành lý quy-y, hay Tam Tự Quy-Y:
đúng nghĩa Tam-quy. Thật thế, bên trong tâm chúng ta cũng có đủ Tam-bảo. Chúng ta cần thực hành lý quy-y, hay Tam Tự Quy-Y:
1- Tự Quy-Y Phật: Tự nghĩa là
mình đối với tự tâm mình. Tư quy-y Phật là mình tự trở về với Phật tánh sáng
suốt của tâm mình, – Vâng mỗi người đều có Phật tánh, và đều có thể thành Phật.
Ðó là lời Phật Thích Ca đã dạy. Nhưng Phật tánh ấy bị mê lầm, vọng tưởng che
lấp. Vọng tưởng như mây mờ, Phật tánh như trăng. Mây mờ có thể che khuất, chứ
không thể tiêu diệt được trăng sáng. Phật tánh chúng ta bị vọng tưởng vô minh
che lấp sâu kín đến đâu cũng vẫn thường còn. Vậy thì sao chúng ta
lại bỏ quên Phật tánh của chúng ta, mà chỉ chạy theo cầu khẩn Phật bên ngoài; như đứa “cùng tử” có viên ngọc quý, cha mẹ đã giấu sẵn trong chéo áo mà nó không biết, lại đi xin ăn cùng khắp mọi nơi!
lại bỏ quên Phật tánh của chúng ta, mà chỉ chạy theo cầu khẩn Phật bên ngoài; như đứa “cùng tử” có viên ngọc quý, cha mẹ đã giấu sẵn trong chéo áo mà nó không biết, lại đi xin ăn cùng khắp mọi nơi!
2- Tự Quy-Y Pháp: nghĩa là vâng theo pháp tánh
của mình. Trong tâm ta có đủ tất cả các Pháp: Từ-bi, Trí-tuệ, Bình đẳng,
Sáng-suốt, Nhẫn-nhục, Tinh-tấn… chúng ta cần phát huy những đức tánh ấy và hành
động theo chúng, tuân theo chúng. Như
thế là Tự Quy-Y Pháp.
thế là Tự Quy-Y Pháp.
3- Tự Quy-Y Tăng: nghĩa là vâng
theo Thầy trong tâm mình, Thầy trong tâm mình là đức tánh hòa hợp thanh tịnh
của mình, như Tăng già là hiện thân của sự hòa hợp thanh tịnh bên ngoài. Bấy
lâu vì mình mê muội, không nhận thấy được ông Thầy
trong tâm, nay nhờ Phật chỉ dạy, mình nhận thấy được ông Thầy thanh tịnh ấy, thì mình phải quy-y Thầy của mình trước đã chứ!
trong tâm, nay nhờ Phật chỉ dạy, mình nhận thấy được ông Thầy thanh tịnh ấy, thì mình phải quy-y Thầy của mình trước đã chứ!
Nói tóm lại, mình phải nương
tựa, quay về với Phật trong tâm mình là tánh sáng suốt; với Pháp trong tâm mình
là các đức tính Từ-bi, Hỷ-xả v.v…, với Tăng trong tâm mình là sự hòa hợp, thanh
tịnh của bản tâm. Như thế là Lý Quy-Y Tam-bảo.
V- Nghi Thức Quy Y
Sau khi chúng ta đã hiểu rõ
SỰ và LÝ Quy-y rồi, chúng ta cũng cần biết qua nghi thức của lễ Quy-y.
1- Trưóc Tiên Phải Gội Rửa
Thân Tâm Cho Trong Sạch.
Quy-y là buổi lễ quan trọng
nhất trên đường tu tập của chúng ta. Nó là cuộc khởi hành để đi đến mục đích
giải thoát, vì thế chúng ta không thể xem thường, cử hành một cách bừa bãi
được.
Khi muốn quy-y, chúng ta
phải y-phục chỉnh tề, sắm khay lễ thỉnh chư Tăng đến trai dường, đảnh lễ và cầu
xin chư Tăng rủ lòng Từ-bi truyền trao quy-giới cho mình.
Trước ngày hành lễ, thân tâm
chúng ta phải được gội rửa trong sạch. Ta tắm rửa sạch sẽ ăn mặc chỉnh tề. Ðó
là về thân; còn về tâm thì ta phải ba phen sám hối, cho ba nghiệp được thanh
tịnh. Nhờ sự tẩy gội cả trong lẫn ngoài ấy, ta mới xứng đáng đón nhận Pháp
thanh tịnh cao quý của Tam-bảo.
2- Phát Nguyện.
Ðến giờ quy-y, chúng ta phải
qùy xuống; theo lời hướng dẫn của chư Tăng, chí thành phát nguyện:
- Ðệ tử suốt đời quy-y Phật.
- Ðệ tử suốt đời quy-y Pháp.
- Ðệ tử suốt đời quy-y Tăng.
Sau khi phát nguyện Tam-quy
rồi, người phát nguyện tin chắc rằng mình đã gieo hạt giống giải thoát, thế nào
cũng sẽ gặt được kết quả tốt là thoát ly ba đường ác: Ðịa-ngục, Ngạ-quỷ,
Súc-sanh. Vì thế người quy-y liền nói tiếp ba lần:
- Ðệ tử quy-y Phật rồi, khỏi
đọa địa ngục.
- Ðệ tử quy-y Pháp rồi, khỏi
đọa ngạ quỷ.
- Ðệ tử quy-y Tăng rồi, khỏi
đọa súc sanh.
Thế là trọn vẹn Tam-quy và
Tam-kiết.
Ðể bảo tồn lý tưởng cao cả
của mình và giữ vững đức tin trên đường Ðạo, người quy-y tự nguyện một cácg
mạnh mẽ và thành khẩn:
- Ðệ tử quy- Phật, nguyện
trọn đời không quy y thiên, thần, quỷ, vật.
- Ðể tử quy-y Pháp, nguyện
trọn đời không quy-y ngoại đạo, tà giáo.
- Ðệ tử quy-y Tăng, nguyện
trọn đời không quy-y tổn hữu ác đảng.
Như thế là lễ quy-y đã hoàn
tất. Người Tín đồ chỉ còn việc làm theo đúng những lời mình đã phát nguyện và
đã tuyên thệ trước Tam-bảo.
VI- Lợi Ích Của Quy Y Tam
Bảo
1- Khỏi đi lạc đường đòi vào
nơi tăm tối.
Như chúng ta đã thấy ở đoạn
mở đầu bài này, chúng ta đang lặng hụp trong biển khổ, đang bơ vơ lạc lỏng giữa
đêm tối mênh mông. Trong hoàn cảnh bi đát như thế, nếu không thấy được những
phương tiện để đi đến, không có những bậc Thầy để dìu
dắt đến, thì chúng ta sẽ quay cuồng mãi mãi trong biển sanh tử luân hồi. Cái đích sáng ấy là Ðức Phật, những phương tiện ấy là Pháp, và những bậc Thầy dìu dắc ấy là Tăng. Khi chúng ta đã biết có những sự quý báu như thế mà không nắm bắt lấy, thì chẳng khácgì người sáp chết đuốiụ thấy cái bè gỗ trôi qua mà lại dại khờ xua đẩy nó ra.
dắt đến, thì chúng ta sẽ quay cuồng mãi mãi trong biển sanh tử luân hồi. Cái đích sáng ấy là Ðức Phật, những phương tiện ấy là Pháp, và những bậc Thầy dìu dắc ấy là Tăng. Khi chúng ta đã biết có những sự quý báu như thế mà không nắm bắt lấy, thì chẳng khácgì người sáp chết đuốiụ thấy cái bè gỗ trôi qua mà lại dại khờ xua đẩy nó ra.
Sự quy-y chính là một cách
bám víu vào cái bè Tam-bảo mà Phật đã chế ra để cứu vớt những kẻ sắp chết duối
trong biển đời là toàn thể chúng ta.
2- Khi đã phát nguyện quy-y,
mình dễ giữ đúng lời đã hứa, vì có sự chứng minh của Chư Phật và Chúng Tăng.
Có người nói: “Tôi tôn sùng
Ðức Phật, vì biết Ngài là một Ðấng sáng suốt hoàn toàn; Tôi trọng trọng Pháp vì
biết Pháp Phật có đủ năng lực đưa người đến giải thoát; tôi kính Tăng vì biết
đấy là những vị đại diện cho Ðức Phật. Biết như thế cũng đủ, cần gì phải làm lễ
phát nguyện quy-y?”
Nói như thế là chưa hiểu giá
trị về phương diện tâm lý của lời hứa, lời thề trước mặt người khác. Khi chúng
ta đã hứa với ai một điều gì, mà nuốt lời hứa, thì tâm hồn chuíng ta bức rức,
hối hận không an. Ðã hứa tất có bổn phận làm trọn lời hứa, nếu
thất lời hứa, tất ta sẽ tự khinh ta. Nhất là khi lời hứa, lời nguyện ấy lại cử hàng trong một khung cảnh trang nghiêm trước Ðiện Phật, trên có sự chứng tri của Chư Phật, dưới có sự chứng tri của chư Tăng, chung quanh có sự hộ niệm của những thân bằng
quyến thuộc; phát nguyện trong khung cảnh ấy, tất nhiên chúng ta khó lòng mà trái lời nguyện hay xao lảng được.
thất lời hứa, tất ta sẽ tự khinh ta. Nhất là khi lời hứa, lời nguyện ấy lại cử hàng trong một khung cảnh trang nghiêm trước Ðiện Phật, trên có sự chứng tri của Chư Phật, dưới có sự chứng tri của chư Tăng, chung quanh có sự hộ niệm của những thân bằng
quyến thuộc; phát nguyện trong khung cảnh ấy, tất nhiên chúng ta khó lòng mà trái lời nguyện hay xao lảng được.
C – Kết Luận
Khuyên tín đồ nên quy-y cả
Sự lẫn Lý và tinh tiến trong sự quy-y
Chúng ta đã thấy, là Phật tử
thì phải quy-y. Quy-y phải đủ Sự và Lý. Không nên hoàn toàn ỷ lại bên ngoài mà
xao lảng bên trong. Cũng không nên hoàn toàn tự tôn tự trọng riêng mình mà
khinh thị bên ngoài. Muốn quy-y thì trước tiên phải long trọng
làm lễ quy-y để đánh dấu bước đi đầu tiên của mình trên đường giải thoát. Lễ ấy như là lễ tiễn đưa một người ra đi nhận một nhiêm vụ mới. Nhưng một khi đã đặt chân lên đường, thì người ấy phải dong ruổi, quyết tiến mau cho đến đích, chứ không phải chần chờ, quay đi lộn lại một chỗ, hay rẽ qua một ngả khác. Ðã phát nguyện quy-y mà không theo dấu chân của Ðức Phật đã để lại, không soi vào gương sáng của Ðức Phật đã nêu cao, không theo giáo pháp mà rèn luyện tâm tánh; không giữ giới luật, không vâng lời nhắc nhở của Chư Tăng, như thế là tự lừa dối mình và lừa dối người khác, và cái tai hại lại càng lớn lao hơn cả không quy-y.
làm lễ quy-y để đánh dấu bước đi đầu tiên của mình trên đường giải thoát. Lễ ấy như là lễ tiễn đưa một người ra đi nhận một nhiêm vụ mới. Nhưng một khi đã đặt chân lên đường, thì người ấy phải dong ruổi, quyết tiến mau cho đến đích, chứ không phải chần chờ, quay đi lộn lại một chỗ, hay rẽ qua một ngả khác. Ðã phát nguyện quy-y mà không theo dấu chân của Ðức Phật đã để lại, không soi vào gương sáng của Ðức Phật đã nêu cao, không theo giáo pháp mà rèn luyện tâm tánh; không giữ giới luật, không vâng lời nhắc nhở của Chư Tăng, như thế là tự lừa dối mình và lừa dối người khác, và cái tai hại lại càng lớn lao hơn cả không quy-y.
Trái lại, nếu chúng ta quy-y
và thực hành đúng như lời đã phát nguyện thì con đường giải thoát dù xa, cũng
sẽ có ngày thấy đích.
Xin hãy luôn luôn ghi nhớ
lời nói cuối cùng của Ðức Phật:
- “Hãy tinh tiến lên để giải
thoát!”.
Trích trong PHẬT HỌC PHỔ THÔNG của Hòa thượng Thích Thiện Hoa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét