Ðời Ðức Phật Thích Ca Là Một
Tấm Gương Sáng
Bắt nguồn một tôn giáo nào,
vị giáo chủ bao giờ cũng là một tấm gương sáng cho tín đồ soi chung để tiến
bước. Nhưng trong các vị giáo chủ của các tôn giáo hiện có trên thế giới này,
không có một vị* nào đầy đủ ý nghĩa cao đẹp, một đời sống sâu xa bằng đức Phật
Thích Ca Mâu Ni.
Mỗi hành động, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói, cho đến mỗi im lặng của Ngài đều là những bài học quý báu cho chúng ta. Nếu chúng ta học giáo lý của Ngài mà không hiểu rõ đời sống của Ngài, thì sự học hỏi của chúng ta còn phiến diện, thiếu sót. Ðời Ngài chính là những biểu hiện giáo lý của Ngài. Ngài nói và Ngài thực hành ngay những lời Ngài đã nói. Ðời Ngài là một bằng chứng hiển nhiên để người đời nhận thấy rằng giáo lý của Ngài có thể thực hiện được, chứ không phải là những lời nói suông, những không tưởng, những lâu đài xây dựng trên mây, trên khói.
Mỗi hành động, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói, cho đến mỗi im lặng của Ngài đều là những bài học quý báu cho chúng ta. Nếu chúng ta học giáo lý của Ngài mà không hiểu rõ đời sống của Ngài, thì sự học hỏi của chúng ta còn phiến diện, thiếu sót. Ðời Ngài chính là những biểu hiện giáo lý của Ngài. Ngài nói và Ngài thực hành ngay những lời Ngài đã nói. Ðời Ngài là một bằng chứng hiển nhiên để người đời nhận thấy rằng giáo lý của Ngài có thể thực hiện được, chứ không phải là những lời nói suông, những không tưởng, những lâu đài xây dựng trên mây, trên khói.
Vậy cho nên khi chúng ta học
hỏi đời Ngài, chúng ta không nên có cái quan niệm học cho biết để thỏa mãn tánh
hiếu kỳ, mà chúng ta cần phải tìm hiểu ý nghĩa thâm túy của đời sống ấy để đem
áp dụng cho đời sống của chúng ta.
Làm được như thế mới khỏi
phụ ý nguyện lớn lao của đức Phật khi giáng sanh xuống cõi Ta Bà này và đã cam
chịu bao nỗi đau khổ, gian lao trong kiếp sống như mỗi người chúng ta.
Chánh Ðề
Ðịnh Nghĩa Hai Chữ Giáng
Sanh
Thường trong danh từ nhà
Phật, khi nói đến sự hiện diện của đức Phật Thích Ca trong cõi đời này, người
ta thường dùng chữ đản sanh (nghĩa là một sự ra đời vui vẻ, làm hân hoan, xán
lạn cho cõi đời); hay thị hiện (nghĩa là hiện ra bằng xương bằng thịt, cho con
mắt trần của chúng ta thấy được); hay giáng sanh (nghĩa là từ một chỗ cao mà
xuống một chỗ thấp để sanh ra).
Ba chữ ấy đều có 3 ý nghĩa
khác nhau: Chữ đản sanh dùng để ca tụng một bậc tôn quí ra đời; chữ thị hiện
hàm cái ý Phật bao giời cũng có cả, nhưng vì mắt người không thấy được, phải
hiện rõ ràng ra mới thấy; chữ giáng sanh hàm cái ý đức Phật ở một cảnh giới cao
hơn, tốt đẹp hơn mà hạ xuống cảnh giới phàm trần này. Ba chữ ấy mặc dù khác
nhau, nhưng đều có thể dùng để chỉ sự ra đời của đức Phật. Trái lại, khi một
nguời phàm ra đời thì gọi là “đầu thai”. Ðầu thai có nghĩa là bị nghiệp báo
hoặc thiện hay ác bắt buộc phải luân hồi để chịu quả báo lành hay dữ. Còn giáng
sinh hay thị hiện thì không hàm cái nghĩa bị nghiệp nhân câu thúc, mà do nơi
lòng từ bi, muốn lợi ích cho chúng sanh, nên tự nguyện ứng thân xuất hiện ra
đời trong một thời gian để cứu độ chúng sanh; xong xuôi thì thâu thần tịch
diệt, tự tại vô ngại ra ngoài sống chết.
Hoàn Cảnh Và Dòng Dõi Của
Ðức Thích Ca
Ðức Phật giáng sinh ở xứ
trung Ấn Ðộ, bây giờ là nước Népal, một nước ở ven sườn dãy núi Hy Mã Lạp Sơn,
là một dãy núi cao nhất thế giới. Phong cảnh ở đấy rất đẹp; đến mùa xuân cả
nước đơm bông nảy lá như một vườn hoa vĩ đại. Dân cư ở xứ ấy rất là thuần
lương. Vị vua trị vì là Tịnh Phạn, một vị vua thuộc dòng Thích Ca, là một dòng họ
lớn đã mấy mươi đời nối nghiệp trị vì đất nước này. Bà Hoàng Hậu Ma Da, cũng là
một người thuộc dòng vua chúa đã lâu đời. cả hai ông bà vua Tịnh Phạn đều là
người đã nhiều kiếp tu hành, có đức hạnh lớn, xứng đáng làm cha mẹ muôn dân.
Một hôm, trong thành Ca Tỳ
La Vệ, là kinh đô của vua Tịnh Phạn, có l vía tinh tú, vua tôi cùng nhau mở hội
ăn chơi. Hoàng Hậu Ma Da, sau khi dâng hương hoa cúng kiến trong cung điện rồi,
ra ngọ môn bố thí thức ăn, đồ mặc cho dân bần cùng. Khi trở về cung an giấc, Bà
nằm mộng thấy một con voi trắng sáu ngà từ trên hư không xuống, lấy ngà khai
hông bên hữu của Bà mà chui vào. Bà đem điềm chiêm bao ấy thuật lại cho vua
Tịnh Phạn nghe. Vua ra lịnh mời các thầy đoán mộng. Các nhà tiên tri đoán rằng:
“Hoàng hậu sẽ sanh một quý tử tài đức song toàn”. Vua Tịnh Phạn rất mừng rỡ, vì
ngôi báu từ đây sẽ có người truyền nối.
Ðến sáng ngày mồng tám tháng
tư âm lịch (trước Tây lịch 624 năm), tại vườn Lâm Tỳ Ni, cách thành Ca Tỳ La Vệ
15 cây số, Hoàng hậu Ma Da đang ngoạn cảnh, trông thấy cành hoa Vô Ưu mới nở,
thơm ngát, bà đưa tay phải với hái, thì Thái Tử cũng vừa xuất hiện ngay đấy.
Ngày đản sanh Thái Tử, trong
thành Ca Tỳ La Vệ, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ, cây cỏ đều
đơm hoa trổ trái; sông, ngòi, mương, giếng nước đều trong đầy; trên hư không
chim chóc và hào quang chiếu sáng cả mười phương.
Vua Tịnh Phạn vui mừng khôn
xiết mời các vị tiên tri đến xem tướng Thái Tử. Trong số ấy, có đạo sĩ tên A Tư
Ðà tu ở núi Hy Mã Lạp, tiên đoán rằng: Thái Tử vì có 32 tướng tốt xuất hiện,
nên sẽ trở thành một vị Thánh. Nhưng vua Tịnh Phạn lại chỉ muốn con mình làm
một vị vua để nối dõi tông đường mà thôi. Vì thế, Tịnh Phạn Vương muốn đổi số
mệnh con mình, nên đặt tên cho Thái Tử là Tất Ðạt Ða *(Siddartha) theo tiếng
Phạn, nghĩa là: “Kẻ sẽ giữ chức vị mà mình phải giữ”. Chức vị mà Tịnh Phạn
Vương muốn ám chỉ đây tức là ngôi Vua. Ngài không ngờ rằng chính thật chức vị
của Ngài là chức vị Phật.
Hoàng hậu Ma Da sau khi sanh
Thái Tử được bảy ngày, vui thú quá vì thấy mình đã làm tròn nhiệm vụ cao quý,
và đã rửa sạch nghiệp báo nên Bà trút được xác phàm và sanh về cõi trời Ðao
Lợi. Vua Tịnh Phạn giao Thái Tử cho em gái Hoàng hậu là Ma Ha Ba Xà Ba Ðề nuôi
dưỡng.
Tài Năng Và Ðức Hạnh Của
Thái Tử
Thái Tử mỗi năm mỗi lớn, thì
diện mạo càng thêm khôi ngôi, tài năng càng phát lộ gấp bội. Ngài có một sức
khỏe hơn người, một trí thông minh xuất chúng. Từ nghề văn cho đến nghiệp võ,
Thái Tử học với ông nào thì trong ít hôm sau, vị giáo sư ấy phải xin cáo thối,
vì không còn đủ sức để dạy nữa. Cho đến ông thầy danh tiếng đệ nhất thời bấy
giờ là Sằn Ðề Ðề Bà cũng chịu khuất phục Ngài luôn.
Nhưng, mặc dù tài sức hơn
người, thông minh xuất chúng lại ở trong địa vị cao sang quyền quý tột bậc,
Thái Tử không bao giờ tỏ vẻ ngạo mạn, khinh người. Ngài có một thái độ rất hòa
nhã ôn hòa, vô tư, bình đẳng. Lòng thương người, thương vật của Ngài không ai
sánh kịp, h có dịp giúp đỡ, thì dù khó khăn bao nhiêu Ngài cũng không từ nan.
Bởi thế, Ngài được trên Vua cha yêu quý, dưới thần dân kính trọng, nể vì.
III Những Ràng Buộc Của Tịnh
Phạn Vương Ðể Ngăn Chí Xuất Gia Của Thái Tử
Càng thương yêu, quý trọng
con Tịnh Phạn Vương lại càng lo sợ con mình sẽ không ở lại với mình, mà sẽ xuất
gia tìm Ðạo để thành một vị Thánh, như lời tiên đoán của đạo sĩ A Tư Ðà. Nhất
là khi nhận thấy càng lớn, Thái Tử lại càng có vẻ suy nghĩ xa xăm, và nét mặt
Thái Tử lại không được vui tươi như thời thơ ấu, Vua Tịnh Phạn lại càng lo sợ
rằng lời tiên tri xưa sẽ *thực hiện. Bởi thế, Vua cùng triều thần ngấm ngầm sắp
đặt mọi kế hoạch để ràng buộc Thái Tử ở lại ngôi báo. Ngài truyền xây dựng ba
tòa lâu đài nguy nga tráng lệ để Thái Tử thay đổi nơi ăn chốn ở cho hợp thời
tiết quanh năm, và chọn từng trăm cung phi mỹ nữ có tài đàn ca hay, múa giỏi để
giải khuây cho Thái Tử. Nhưng chừng ấy cũng chưa đủ Ngài còn làm l thành hôn
cho Thái Tử với một Công chúa con vua Thiện Giác là Da Du Ða La, một Công chúa
tuyệt đẹp và đức hạnh vô cùng.
Thái Tử bị bắt buộc phải lập
gia thất và có một con là La Hầu La.
Nhưng, mặc dù sống một cuộc
đời quá đầy đủ: nào chức tước danh vọng, nào lâu đài cung điện, nào đàn ca múa
hát, nào vợ đẹp con ngoan, Thái Tử vẫn thấy lòng mình nặng trĩu bao nỗi băn
khoăn, thắc mắc. Ngài cho cảnh đời Ngài đang sống đây không phải là hạnh phúc
chân thật, mà là giả dối, mê muội, chỉ làm cho kiếp sống thêm nặng nề đau khổ.
Ngài thấy cần phải tìm một lối thoát, một cuộc sống chân thật, có ý nghĩa và
cao đẹp hơn.
Nhận Ra Bốn Tướng Khổ Ở Ðời
Một hôm, nhân ngày l hạ điền, Thái Tử theo vua cha ra đồng xem dân chúng cày
cấy. Cảnh xuân, mới nhìn qua, thật là đẹp mắt, nào hoa lá tốt tươi, muôn chim
đua hót; nào bầu trời quang đãng, gió xuân phơi phới. Cảnh tượng có vẻ thái
bình, an lạc lắm. Nhưng tâm hồn Thái Tử không phải là một tâm hồn hời hợt, xét
đoán một cách nông nỗi. Trái lại, Ngài nhìn sâu vào trong cảnh vật và đau đớn
nhận thấy rằng cõi đời không đẹp đẽ an vui như khi mới nhìn qua. Ngài thấy
người nông phu và trâu bò làm việc một cách cực nhọc dưới ánh nắng thiêu đốt,
để đổi lấy bát cơm, nắm cỏ. Chim chóc tranh nhau ăn tươi nuốt sống côn trùng
đang giãy giụa* trên những luống đất mới cày. Cũng trong lúc ấy, trong bụi rậm
người thợ săn đang nhắm bắn những con chim kia, và trong khu rừng gần đấy, bọn
hổ báo đang rình bắt người thợ săn. Thật là một cảnh tương tàn tương sát, không
phút giây nào ngừng ! Chỉ vì miếng ăn để sống mà người và vật dùng đủ mọi
phương kế để giết hại lẫn nhau không biết gớm. Ngài nhận thức rõ ràng sự sanh
sống là khổ.
Một hôm khác, Ngài xin phép
Vua cha đi dạo ngoài bốn cửa thành để được tiếp xúc với thần dân. Ra đến cửa
Ðông, Ngài gặp một ông già tóc bạc, răng rụng, mắt lờ, tai điếc, lưng còng,
nương gậy lần từng bước ngập ngừng như sắp ngã.
Ðến cửa Nam, Thái Tử thấy
một người đau nằm trên cỏ, đang khóc than rên siết, đau đớn vô cùng.
Ðến cửa Tây, Ngài trông thấy
một cái thây chết nằm giữa đường, ruồi lằng bu bám, và sình lên, trông rất ghê
tởm.
Ba cảnh khổ già, đau, chết,
cộng thêm vào cái ấn tượng tương tàn trong cuộc sống mà Thái Tử đã nhận thấy
khi đi xem l cày ruộng, làm cho Ngài đau buồn, thương xót chúng sanh vô cùng.
Một hôm khác nữa, Ngài ra
cửa Bắc, gặp một vị tu sĩ tướng mạo nghiêm trang, điềm tỉnh thản nhiên như
người vô sự đi ngang qua đường. Thái tử thấy trong lòng nẩy sinh một cảm mến
đối với vị tu sĩ. Ngài vội vã đến chào mừng và hỏi về ích lợi của sự tu hành.
Vị Sa môn đáp rằng: “Tôi tu hành là quyết bỏ dứt mọi sự ràng buộc của cõi đời,
*về cầu cho mình khỏi khổ và thành chánh giác để phổ độ chúng sanh đều được
giải thoát như mình”
Lời giải đáp trúng với hoài
bão mà Thái Tử đang ấp ủ bấy lâu, nên Ngài khôn siết vui mừng. Ngài liền trở về
cung xin vua cha cho mình xuất gia. Vua Tịnh Phạn không nhận lời. Thái Tử yêu
cầu vua cha 4 điều nếu vua giải quyết được thì Ngài hoãn viêỉc đi tu, để trở
lại lo chăn dân, trị nước. Bốn diều này là:
1. Làm sao cho con trẻ maic
không già
2. Làm sao cho con mạnh mãi
không đau
3. Làm sao cho con sống hoài
không chết
4. Làm sao cho mọi người hết
khổ
Bốn điều này làm cho vua cha
bối rối, không giải quyết được điều nào cả.
IV. Sự Xuất Gia Tìm Ðạo
Tịnh Phạn Vương, khi biết
được ý định xuất gia của Thái Tử, lại càng lo sợ, lại tìm hết cách để ngăn cản,
ràng buộc Ngài trong “cung vui”. Nhưng một khi Thái Tử đã quyết thì không có
sức mạnh gì ngăn trở được Ngài.
Một đêm khuya thừa dịp quân
lính canh gác và cung phi mỹ nữ say ngủ sau một tiệc linh đình, Thái Tử lén
trổi dậy, *khi nhìn vợ con lần cuối, rồi đánh thức tên giữ ngựa Xa Nặc dậy,
thắng yên cương, rồi hai thầy trò trốn ra khỏi thành. Lúc bấy giờ nhằm đêm mồng
tám tháng h ai, và Ngài được 19 tuổi.
Sau khi vứt bỏ khỏi cuộc đời
vương giả, Thái Tử đi vào vùng sdsâu *tìm Ðạo.
Ban đầu Ngài đến ở tu với
các vị tu khổ hạnh. Nhưng hạng người này sống một cách kham khổ, nhịn ăn nhịn
uống, dãi nắng, dầm sương, hành thân hoại thể một cách ghê rợn. Thấy cách tu
hành như thế không hiệu quả, Ngài khuyên các vị đó nên bỏ phương pháp tu hành
ấy, nhưng họ không nghe. Ngài lấy làm thương họ, nên tìm đi nơi khác để tu
hành. Ngài đi hết chổ này đến chổ khác, ở đâu nghe có một vị tu hành đắc đạo
thì Ngài tìm đến học; nhưng đến đâu thì Ngài thấy đạo của họ vẫn còn hẹp hòi,
thấp thỏi, không thể giải thoát cho con người hết được. Từ đấy Ngài * chốn tu
tập một mình, đêm ngày nghiền ngẫm đến đạo giải thoát, quên ăn bỏ ngủ thân hình
mỗi ngày mỗi tiều tụy. Một hôm Ngài kiệt sức, nằm ngã liệt trên cỏ, và được một
người chăn cỏ đến đổ sủa cho Ngài tỉnh lại. Từ đó Ngài nhận thấy nếu muốn có
kết quả, cần phải bổ dưỡng thân thể cho được mạnh khỏe, chứ không bỏ quên nó đi
được.
Khi thấy mình đủ sức khỏe để
chiến đấu trong trận cuối cùng với bóng tối si mê và dục vọng, và đem lại ánh
sáng giác ngộ, Ngài đến ngồi nhập định dưới gốc cây Bồ Ðề và thề rằng: “nếu ta
không thành đạo thì thịt nát sương tan, ta cũng quyết không rời chổ này.”
IV Thành Ðạo
Ðức Thích Ca đã ngồi nhập
định 49 ngày đêm dưới gốc Bồ Ðề. Trong 49 ngày ấy Ngài đã chiến đấu với bọn
giặc phiền não ở nội tâm như tham, sân, si, nghi, mạn…và chiến đấu với giặc
Thiên Ma do Ma Vương Ba Tuần chỉ huy.
Sau khi thắng cả giặc ở nội
tâm cả ngoại cảnh, tâm trí được khai thông, Ngài hốt nhiên đại ngộ.
Trong đêm thứ 49, vào canh
hai, Ngài chứng được quả “Túc Mệnh Minh”, thấy rõ được tất cả quá khứ của mình
trong tam giới. Ðến nữa đêm, Ngài chứng được quả “Thiên Nhãn Minh”, thấy được
tất cả bản thể của vũ trụ và Ngài *nguyên nhân cấu tạo của nó. Ðến canh tư,
Ngài chứng được *quả của đau khổ và phương pháp dứt trừ đau khổ để được giải
thoát khỏi tư *pháp luân hồi.
Từ ngày ấy, Ngài được Ðạo vô
thượng, thành bậc “Chánh Ðẳng Chánh Giác”, hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngày
thành đạo của Ngài tính theo âm lịch là ngày mồng 8 tháng 12, vào lúc sao mai
mọc. Lúc ấy Ngài được 30 tuổi.
IV Ý Nghĩa Cao Cả Trong Sự
Xuất Gia Tìm Ðạo Của Ðức Phật
Những chiến sĩ chiến thắng
quân địch ở ngoài chiến trường, thường được ca tụng là anh hùng. Càng chiến
thắng được nhiều quân địch càng được hoan hô là anh hùng cái thế. Nhưng những
kẻ anh hùng cái thế ấy, như Nã Phá Luân, Thành Cát Tư Hãn, Xê Ða (*Céar), chính
mình? cho nên thắng người đã khó mà thắng mình lại khó hơn. Ðức Phật đã thắng
cả ngoại cảnh lẫn nội tâm, đã thắng được giặc Ma Vương * Dục Vọng. Ðức Phật
thật xứng đáng với danh hiệu Ðại Hùng Ðại Lực.
Ngài không phải * quyền lời
riêng mình mà chiến đấu. Ngài chiến đấu vì tình thương. Mà tình thương ở đây
cũng không phải chỉ nhằm tình thương trong phạm * hẹp hòi của gia đình: thương
cha mẹ, vợ con, bạn bè. Tình thương ở đây là tình thương chúng sanh, tất cả cõi
đời. Tình thương ấy nó rộng sâu như trời bể, thiết tha như tình mẹ thương con.
Ðức Phật thật xứng đáng với danh hiệu Ðai Từ Ðại Bi.
Lại tình thương ấy*, Ngài đã
hoan hỷ lìa bỏ ngôi báu cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, đàn hay múa đẹp,
mùi ngon vị lạ để sống một đời kham khổ, đạm bạc, thiếu thốn, giữa rừng thiêng
nước độc. Một khi mà rời bỏ thứ mà người đời cho là qúy báu nói trên, Ngài
không một phút giây nào hối tiếc, muốn quay về để hưởng thụ lại. Bằng cớ là Ma
Vương đã sai con gái mình giả làm nàng Gia Du đến kêu gọi van xin Ngài trở về
cung, mà Ngài không một chút bận tâm thối chuyển. Ngài xứng đáng với danh hiệu
là Ðại Hỷ Ðại Xả.
Cho nên ngày nay, mỗi khi
xưng tán danh hiệu Ngài, chúng sanh không thể không suy gẫm cái ý nghĩa sâu sắc
và đúng đắn mà người đời từ xưa đến nay đã tôn xưng Ngài là Ðại Hùng, Ðại Lực,
Ðại Từ, Ðại Bi, Ðại Hỷ, Ðại Xả.
C. Kết Luận
Chúng Ta Nên Phát Tâm Rộng
Lớn Và Mạnh Mẽ
Chúng ta đã được biết qua
đời sống của Ðức Phật từ khi sơ sanh cho đến thành đạo. Bài học của đời Ngài
dạy cho chúng ta nhiều ý nghĩa, nhiều phương diện quý báu.
Nhưng điều quý báu nhất đối
với kẻ sơ cơ như chúng ta là phải phát tâm Bồ Ðề rộng lớn, nguyện vì đời, vì
đồng bào, đồng loại mà tu hành, chứ không phải *là ích lợi riêng cho chúng ta.
Chúng ta lại phải phát tâm
dõng mãnh, tích cực trong sự tu hành; một khi vào đường đạo, thì dù gặp nguy
nan, hiểm trở khó khăn cũng nhất thiết không thối lui quay gót. Chúng ta phải
tập cho được cái đức kiên trí như Ðức Phật khi ngồi thiền định dưới gốc Bồ Ðề.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét