Ðộ thứ nhất: Bố
Thí Ba La Mật
A. Mở Ðề
Ðạo Phật thường được gọi là
Ðạo Từ bi, vì tình thương trong Ðạo Phật rất bao la, sâu rộng. Ðức Phật tổ vì
từ bi mà xuất gia để tìm đạo cứu khổ cho chúng sinh. Vậy người Phật tử, khi noi
theo dấu chân Phật, cũng phải lấy từ bi làm động tác chính cho sự tu hành của
mình.
Những làm thế nào để thể
hiện được lòng từ bi và làm cho nó tăng trưởng? Phương pháp mầu nhiệm nhất là
thực hành pháp môn Bố thí Ba la mật, một trong sáu pháp môn(lục độ) mà đức Phật
đã chế ra cho kẻ tu hành có tâm trí rộng lớn thực hành để độ mình và độ người
ra khỏi biển sanh tử luân hồi và đến bờ giác ngộ.
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa
Bố thí là cùng khắp:
thí là cho, là trao tặng. Bố thí là cho cùng khắp, cho tất cả mọi người, mọi
vật, mọi nơi.
Ba la mật nguyên âm tiếng
Phạn là Paramita. Người Trung hoa dịch nghĩa là “Bỉ ngạn đáo”, nói theo tiếng
Việt là “đến bờ bên kia”.
Bố thí Ba la mật, tức là một
môn tu hành bằng phương pháp bố thí, co công năng như một chiếc thuyền, đưa
mình và người từ bờ mê lầm của chúng sinh sang bờ giác ngộ của chư Phật.
II. Thành Phần Của Bố Thí Ba
La Mật
Bố thí Ba la mật gồm các
loại sau đây: Tài thí, Vô úy thí. Dưới đây chúng ta lần lượt tìm hiểu ý nghĩa
của các loại bố thí ấy:
1. Tài thí.
Tài thí tức là đem tiền bạc,
của cải, vật thực của mình ra cho. Tài thí có hai loại:
a) Nội tài. Là những vật
chí thân quí báu nhất của mình như thân mạng, đời sống của mình. Thí nội tài ở
đây tức là hy sinh thân mạng để cứu vớt kẻ khác ra khỏi nguy nan. Trong các
chuyện tiền thân của đức Phật Thích Ca, chúng ta đã thấy nhiều gương thí nội
tài, như cấu chuyện Ngài lái buôn kia, trong khi đi biển bị thuyền chìm đã tự
hy sinh thân mạng bằng cách buông tay khỏi cột buồm mà mình đang bám vào, để
nhường chỗ cho những hành khách xấu số khác khỏi chết đuối.
Thí nội tài là một cử chỉ hy
sinh cao đẹp nhất mà chỉ những người giàu lòng từ bi, bác ái mới làm được. Nếu
còn xem thân mạng mình là quý, là trọng hơn thân mạng kẻ khác thì chắc chắn
không bao giờ thực hiện được loại bố thí này.
b) Ngoài tài. Ngoại tài là
những vật thường dùng của mình như thức ăn đồ mặc, tiền bạc, xe cộ, ruộng vườn,
nhà cửa v.v…Ðem những vật ấy ra cho những người túng thiếu, nghèo khổ thì gọi
là thí ngoại tài.
2. Pháp thí.
Ðem lời hay, lẽ phải, những
chân lý đúng đắn, những lời dạy quí báu của đức Phật để chỉ bày, khuyên bảo
người khác; hoặc y theo giới luật của Phật tu hành thành thật để làm khuôn mẫu
cho người bắt chước, bỏ dữ theo lành, cải tà quy chánh đều là pháp thí. Pháp
thí có một giá trị rất lớn lao hơn cả tài thí, và tài thí chỉ giúp người khác đơc
túng thiếu về phương diện vật chất trong một thời gian, hay nhiều nhất là cứu
giúp một đời người. Nhưng pháp thí giúp đỡ người rất nhiều về phương diện tinh
thần, không riêng gì đối với người nghèo khó, mà cả người giàu sang, chức tước;
không phải chỉ có ảnh hưởng tốt trong một giai đoạn, mà gieo nhân lành cho
nhiều đời kiếp về sau. Vì những lẽ đó, nên người Phật tử chân chính, không bao
giờ bỏ mất một dịp nào mà không làm pháp thí, cả về phương diện khẩu giáo (dùng
lời lẽ đúng Phật pháp để chỉ dạy_ lẫn phương diện thân giáo (dùng đời sống chân
chính hợp đạo để chỉ dạy).
3. Vô úy thí.
Vô úy nghĩa là không sợ. Vô úy thí là làm cho
người khác không sợ, hết sợ. Phép thí này mới nghe thì tưởng như là không quan
trọng gì cả. Nhữnh nếu suy nghĩ một cách chín chắn, chúng ta sẽ thấy đức Phật
thật vô cùng thâm thúy khi chế ra pháp thí này.
Chúng ta hãy nghĩ lại mà
xem, có phải trong một đời người, cái sợ đã chiếm nữa cuộc đời rồi không? Khi
nhỏ chúng ta sợ la rầy, sợ đánh đập, sợ ma quỉ…khi tráng niên sợ thiếu ăn, thiếu
mặc, sợ giặc, sợ thiếu công danh, sự nghiệp; khi già sợ đau, sợ ốm, sợ già, sợ
chết…Chỉ toàn sợ và sợ. Ðó là chưa nói đến gặp thời buổi loạn lạc, còn phải sợ
sưu cao, thuế nặng, sợ quan tham, lại nhũng, sợ trộm cướp, lưu manh, sợ tù, sợ
tội, sợ chém, sợ giết…Bao nhiêu thứ sợ chồng chất lên đầu người, làm cho họ
không dám ngửng lên, lưng họ còm xuống, đầu gối họ sắp quỵ. Muốn có một hình
ảnh tượng trưng cho sự sợ hãi, thì hãy lấy hình ảnh của người dân quê Việt nam
trong thời Pháp thuộc thì rõ: Hai tay họ sẵn sàng chắp lạy, mắt không dám nhìn
lên, lưng còng xuống và hai đầu gối sẵn sàng để quỳ xuống mỗi khi nghe tiếng
nạt của ông quan hay ông thực dân hống hách.
Ðời sống đã khổ, lại càng
khổ thêm vì sợ. Cho nên làm cho người hết sợ, chính là đã cứu cho họ bớt đi quá
nửa khổ đau trong liếp sống. Lòng từ bi của đức Phật nở thấy chúng sinh khổ sở
vì sợ, nên đã chế ra phép thí vô úy.
Muốn thực hành pháp môn này,
hành giả trước tiên phải luyện cho mình một đức tính đừng sợ gì cả. Mà kẻ tu
hành chân chính, hiểu rõ giáo lý của Phật, thì còn sợ nỗi gì? Tiền của, họ
không tham lam cho nên không sợ mất; danh lợi, họ không màn, nên không sợ
thiếu, sanh mạng, họ xem như giả tạm, nên không sợ chết. Do cái tâm lý đó mà
cõi lòng họ luôn luôn không xao động, nét mặt họ luôn luôn bình tĩnh trước mọi
sự đổi thay, gian nan nguy hiểm. Người tu hạnh thí vô úy sẵn sàng để nhảy xuống
nước vớt người sắp chết chìm, nhảy vào lửa để cứu người sắp chết thiêu, xông
vào đám cướp để cứu người lương thiện, đến gõ cửa công, để minh oan cho người
vô tội…
Tóm lại, người tu hạn thí vô
úy, hhẽ đi đến đâu thì đem đến đó một nỗi binh tĩnh, an vui cho mọi người và
mọi vật.
III. Phải Bố Thí Như Thế Nào
Mới Ðúng Chánh Pháp
Chúng ta đã biết qua các lối
Bố thí Ba la mật. Ðến đây, chúng ta cũng cần biết rõ thái độ của người tu hành
bố thí phải như thế nào.
Sự bố thí như đã nói trên,
thật ra không khó và không hiếm. Rất nhiều người có thể làm được. Trong đời,
chúng ta thường thấy có nhiều kẻ giàu có đem bạc ngàn bạc vạn ra bố thí, có
nhiều người bỏ cả tài sản ra lập nhà thương, ký nhi viện, trường học, có nhiều
người dám liều mạng xông vào lửa để cứu kẻ sắp chết thiêu, nhảy xuống nước cứu
người sắp chết đuối; có những kẻ anh hùng đem tài năng ra bảo vệ kẻ yếu hèn,
hay dám đương đầu với bọn xâm lăng để giữ gìn đất nước.
Về phương diện thí pháp, có
nhiều người đi đâu cũng đem đạo lý ra giảng nói, đi đâu cũng tỏ ra ta đây hiểu
đạo, chứng quả.
Nếu nhìn bề ngoài, thì những
hành động ấy đều là bố thí cả. Nhưng nếu xét về tâm lý và động lực thúc đẩy bên
trong, thì có thể có hai trường hợp khác xa nhau.
1. Bố thí chấp tướng.
Nghĩa là bố thí với một dụng
tâm không trong sạch. Chúng ta đã biết bố thí do từ tâm mà ra. Bố thí là một
pháp môn để tự độ và độ tha. Những nếu bố thí với một dụng tâm khác như cầu
danh, cầu tài lợi (cho ít mà cầu được trả nhiều), hoặc vì ganh đua, hoặc vì
muốn làm nhục người chịu ơn, hoặc vì bị ép buộc, hoặc cho với một tâm lý khinh
rẻ, hối tiếc hoặc cho với một tâm lý lừa lọc, bất công, thiên vị; nếu bố thí
với một tâm lý, một thái độ như thế, thì tất là bố thí chấp tướng.
Chẳng hạn đem tiền của ra
lập nhà thương, trường học để được nêu trên báo, để được nhắc nhở đến luôn;
hoặc nhảy xuống sông cứu người chết đuối để được “người đẹp” tán thưởng; hoặc
giết giặc để mong được tấm huy chương, hoặc giảng đạo lý để tỏ ra mình học rộng
biết nhiều. Những hành vi bên ngoài đẹp đẽ ấy, bên trong thật không có giá trị
gì.
Bố thí với tâm lý, với động
lực như thế, không phải là Bố thí Ba la mật; và phước đức của những hành động
ấy thuộc về hữu lậu rất mỏng manh, như mây nổi giữa hư không, gặp gió thổi liền
tiêu tan.
2. Bố thí không chấp tướng.
Nghĩa là bố thí với một dụng
ý trong sạch, đúng với ý nghĩa của nó.
Trong khi bố thí, hành giả
vì tâm từ bi bình đẳng, xem chúng sinh như con, nên không sinh tâm vị kỷ, không
phân biệt bỉ thử, thân sơ. Hành giả vì biét tài sản cũng như thân mạng mình đều
là giả tạm, vô thường, nên không tham lam, tiếc nuối. Hành giả vì biết cái ngã
không có thật, nên khi cho không thấy có kẻ cho và người nhận, không tự cao, tự
đại.
Bố thí với một tâm địa trong
sạch như trên sẽ được phước vô lậu thanh tịnh, mới đúng là Bố thí Ba la mật.
IV.
Công Ðức Bố Thí Ba La Mật
Pháp bố thí là cái nhân lành
của quả phúc ở thế gian và xuất thế gian. Trong lục độ vạn hạnh, pháp bố thí
đứng đầu, vì nó tương đối dễ làm hơn tất cả các pháp, mà công đức lại lợi lạc
được cả đôi bên người nhận và kẻ cho:
1. Ðối với người nhận.
Người đời không ai là đầy
đủ. Kẻ được phần này thì thiếu phần khác: kẻ được vật chất thì mất tinh thần,
kể đầy đủ tinh thần thì thiếu thốn vật chất.
Kẻ đang thiếu thức ăn mà
được ăn, kẻ đang thiếu mặc mà được mặc, kẻ đang đau xót mà được vỗ về, an ủi,
kẻ đang lo sợ mà được đùm bọc che chở thì thật là may mắn sung sướng vô cùng.
Trong một xã hội có được nhiều người giàu lòng từ bi bác ái, luôn luôn tìm cách
giúp người, thì xã hội ấy chắc chắn sẽ được an vui thịnh đạt.
2. Ðối với người cho.
Sự bố thí đã đành là lợi lạc
cho người nhận, những đối với người cho cũng không kém phần quý báu. Ngoài sự
sung sướng được thấy mình làm việc phải, được thấy quần sinh sung sướng, vui
mừng, hành giả còn nhờ bố thí mà tiến mau, tiến xa trên đường đạo. Mỗi khi đem
của cải ra cho, là hành giả có một dịp để chiến thắng lòng tham lam, bỏn sẻn,
ích kỷ và noiứ rộng lòng từ bi; mỗi khi hy sinh tánh mạng để cứu giúp người, là
hành giả có dịp để thử thách lòng tham sống, sợ chết, và trau dồi đức tánh lợi
tha, bình tĩnh. Mỗi khi cho mà không kể kẻ thân người thù, là hành giả có dịp
để chiến đấu với ngã chấp ngã ái, bãg mạn. Nếu hành giả thí pháp, thì đó là
những cơ hội để mình tự nhắc nhở, ghi nhớ những lời đức Phật dạy, nhữ công đức
mà Ngài đã làm để noi theo.
C. Kết Luận
Chúng ta đã thấy rõ giá trị
của pháp Bố thí Ba la mật. Công đức của nó không những chỉ riêng cho người
nhận, mà lẫn cả người cho nữa. Nó vừa độ người mà vừa độ mình. Nó công năng đưa
mình và người từ bờ mê lầm đến bờ giác ngộ, từ địa vị phàm phu đến quả vị Bồ
Tát.
Vậy xin khuyên các Phật tử
đều phát tâm Bồ đề, tu hạnh Bố thí Ba la mật, để trên cầu thành quả Phật, dưới
hóa độ chúng sinh, đền ơn Tam Bảo.
Trích trong PHẬT HỌC PHỔ
THÔNG của Hòa thượng Thích Thiện Hoa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét