Ðộ thứ năm: Thiền
Ðịnh Ba La Mật
A. Mở Ðề
Kẻ tu hành muốn đến bờ giải
thoát hoàn toàn, cần phải tu cả phước lẫn huệ. Trong bốn đọ trước của lục độ mà
chúng ta đã học, chỉ nói về tu phước. Trong hai độ cưối cùng là Thiền định và
Trí huệ, chúng ta sẽ học về tu huệ.
Trước tiên, chúng ta hãy tìm
hiểu tánh cách quan trọng và giá trị của Thiền định.
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa
Thiền định là gì? Thiền
phiên âm theo tiếng Phạn là Thiền na, xưa dịch là tư duy, nay các học giả dịch
là Tĩnh lự. Tu Tư duy có nghĩa là tu tập bằng phương pháp suy nghiệm, nghiên
tầm và suy cứu về những đối tượng của tâm thức. Tĩnh lự có nghĩa là dùng tâm
thể vắng lặng để thẩm sát các vấn đề đạo pháp.
Còn chữ Ðịnh phiên âm theo
tiếng Phạn là Tam muội (Samadhi), có nghĩa là tập trung tâm lý vào một đối
tượng duy nhất, không để cho tâm ý tán loạn. Hợp hai chữ Thiền và Ðịnh lại, ta
có một định nghĩa chung: Tập trung tâm ý vào một đối tượng duy nhất không cho
tan loạn, để tâm thể được vắng lặng và cho tâm dụng được mạnh mẽ, hầu quan sat
và suy nghiệm chân lý.
II. Các Loại Thiền định
Thiền định có thể gọi là một
trạng thái của tâm lý, trạng thái ấy gọi là trạng thái Tĩnh lự. Song ở Dục giới,
tâm lý không thể có được trạng thái ấy, vì nó chỉ phát hiện ở Sắc giới, và Vô
sắc giới. Rõ hơn nữa là Thiền thuộc về Sắc giới và Ðinh thuộc về Vô sắc giới. Ở
mỗi giới, Thiền và Ðịnh đều phân làm bốn cấp bực từ thấp lên cao, cho nên có danh
từ là Tứ thiền và Tứ định.
Tứ thiền và Tứ định này, tuy
là kết qủa của công phu tu tập Thiền định, hay gieo trồng thiện căn, nhưng cũng
là chung cho cả Phật pháp, cả Thế gian pháp, cả Thánh cả Phàm. Nói rõ hơn, là
dù theo phương pháp Ðạo Phật hay phương pháp nào, nếu có đường lối, có công phu
đều có thể đạt đến Tứ thiền và Tứ định; nhưng đây cũng chỉ là thế gian pháp mà
thôi.
Còn nói về pháp Ðịnh của chư
Phật, Bồ Tát và A La Hán thì khác. Ðó là Thiền định thuộc Xuất thế gian pháp,
không thể phát hiện trong phạm vi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới được.Muốn
đạt đến trạng thái Tĩnh lực của các bậc ấy, người ta phải đạt đến sự thoát ly
tam giới. Còn lẩn quẩn trong tam giới thì tâm ý chỉ có thể đạt đến Tứ định là
cùng.
Muốn có được Tứ thiền và Tứ
định, chỉ phải thoát ly và đoạn diệt phiền não ở Dục giới. Nhưng nếu muốn đạt
các pháp Ðịnh vô lậu, thì phải diệt trừ tất cả các phiền não của Vô sắc giới.
Trước khi mong đến được Ðịnh
vô lậu, phải vần đến Thiền, bởi vì Thiền là căn bản của Ðịnh. Có được ngũ nhãn,
lục thông cũng nhờ Thiền. Vả lại, Thiền có công dụng thẩm sát, nghiên cứu. Nếu
muốn quan niệm chân lý, tất phải nhờ đến Thiền do đó Thiền là pháp tối yếu cho
kẻ học đạo.
Ðứng về phương diện các
trình độ của Thiền, kinh sách có dạy như sau:
1. Thế gian thiền.
Thiền này có hai loại: Căn
bản vị thiền và Căn bản tịnh thiền. Căn bản vị thiền gồm có mười hai phẩm, phân
làm ba: Tứ thiền, Tứ vô lượng và Tứ không.
Người phàm chán cảnh tán
loạn của Dục giới thì tu Tứ thiền. Người muốn phước lớn thì tu Tứ vô lượng. Kẻ
nhàm chán cảnh sắc giới chật hẹp thì tu Tứ không. Vì mười hai phẩm Thiền này có
thể làm căn bản cho thịện pháp xuất thế gian, nên gọi là căn bản Thiền. Với
lại, an trú trong mười hai phẩm ấy, người tu Thiền còn ưa thích cảm giác lạc
thọ của Thiền, nên gọi là căn bản vị Thiền.
Căn bản vị thiền, phân làm hai:
Lục diệu môn và Thập lục đặc thắng. Ai có huệ tánh nhiều thì tu Lục diệu môn,
kẻ nào có định tánh nhiều thì tu Thập lục đắc thắng. Những ai có huệ tánh và
định tánh đều nhau thì có thẻ tu cả hai loại. Vì người ta có thể căn cứ vào
pháp Thiền này để phát sinh vô lậu trí, không phải chỉ thuần hữu lậu, như ở Căn
bản vị thiền, nên gọi là căn bản tịnh thiền.
Tuy nhiên, cả hai loại đều
chỉ là thế gian thiền mà thôi, vì trước thời Phật giáng thế, phép Thiền này đã
có.
2. Xuất thế gian thiền.
Pháp thiền này làcủa bậc
xuất thế. Có bốn thứ Thiền quán: Cửu tướng quán, Bát bối xả quán, Bát thắng xứ
quán và Thập nhất thiết xứ quán. Tu bốn thiền quán này, tuy là lấy các pháp hữu
vi làm đối tượng suy nghiệm, những có thể đi đến kết quả ly dục, phát sinh vô
lậu trí, nên gọi là Xuất thế gian thiền.
3. Xuất thế gian thượng
thượng thiền.
Ðây là pháp Thiền cao tột
của các bậc đại nhân. Kinh Ðịa trì có giải về chín môn đại thiền này như sau:
-
Một là “Tự tánh thiền”, nghĩa là quán sát thật tướng
của tự tâm, không cần lấy đối tượng ngoại cảnh.
-
Hai là “Nhất thiết thiền”, có công năng tự hành và
hóa tha.
-
Ba là “Nan thiền”, môn Thiền gian nan, thâm diệu,
khó tu.
-
Bốn là “Nhất thiết môn thiền”, có nghĩa là tất cả
các pháp Thiền định đều do môn (cửa) này mà phát xuất.
-
Năm là “Thiện nhân thiền”, môn Thiền của những chúng
sanh có đại thiện căn cùng tu.
-
Sáu là “Nhất thiết hạnh thiền”, bao nhiếp tất cả
hạnh pháp của Ðại Thừa.
-
Bảy là “Trừ não thiền”, có năng lực trừ diệt phiền
não, khổ đau cho chúng sinh.
-
Tám là “Thử thế tha thế lạc thiền”, có năng lực làm
cho chúng sinh an lạc trong hiện tại và tương lai.
-
Chín là “Thanh tịnh tịnh thiền”, có năng lực đoạn
trừ hoàn toàn các hoặc nghiệp, và chứng được Tịnh báo đại Bố đề. Ðến môn Thiền
này, tâm ý hoàn toàn thanh tịnh và lại cũng không còn thấy cái tướng thanh tịnh
ấy nữa, nên gọi là Tịnh báo.
III. Công Năng Của Thiền
định
Theo Bồ Tát hạnh, có thể tu
tập Thiền định và đạt đến mười kết quả tốt đẹp sau đây:
-
Một là được an trụ trong pháp thức uy nghi. Tu Thiền định
phải theo pháp thức mà hành trì, như vậy trải qua một thời gian kha lâu, thì
ngũ căn được tịch tịnh, chánh định phát khởi, không cần có sự cố gắng mà vẫn
được an trụ trong pháp thức oai nghi.
-
Hai là được thực hành cảnh giới từ bi. Khi tu Thiền
định, thì giữ được tâm từ bi, thương yêu chúng sinh, muốn cho tất cả được an
ổn.
-
Ba là không còn phiền não. Nhờ năng lực
Thiền định mà các phiền não tham, sân, si, không còn phát sinh nữa.
-
Bốn là gìn giữ được các giác quan. Không cho sắc,
thanh, hương, vị, xúc lay động.
-
Năm là vui vẻ lạc thú. Xem Thiền định là một món
ăn ngon lành hơn tất cả các món ănm khác trong thế gian.
-
Sáu là xa lìa được ái dục. Một khi tâm
niệm đã lắng yên, ái dục không còn phát sinh và làm nhiễm trước được nữa.
-
Bảy là chứng được chân không , những không
bao giờ bị rơi vào chỗ chấp đoạn diệt hư vô.
-
Tám là cởi mở được tất cả những dây trói buộc sự
giải thoát.
-
Chín là khai phát được trí huệ vô lượng và an trú
trong cảnh giới của chư Phật.
-
Mười là đạt đến sự giải thoát thành thục, đến chỗ mà tất
cả hoặc nghiệp không còn nhiễu lại được nưũa.
C. Kết Luận:
Chúng ta có thể tóm tắt
thành quả tốt đẹp của Thiền định như sau:
Ngũ căn được tự tại, phiền
não được dứt trừ ,từ bi được mở rộng, trí huệ được phát chiếu, cảnh giới giải
thoát được phô bày ra trước mắt. Một pháp môn có công năng quí báu, có diệu
dụng phi thường như thế, làm sao chúng ta có thể bỏ qua được?
Mong rằng vì lợi ích thiết
thực nói trên, quí vị Phật tử hãy gắng công tu tập pháp môn Thiền định này cho
chíng có kết quả.
Trích trong PHẬT HỌC PHỔ
THÔNG của Hòa thượng Thích Thiện Hoa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét