I.-
Duyên Khởi Lập Tông
Tôn này căn
cứ vào ba bộ luận sau đây mà thành lập, nên gọi là Tâm Luận tôn.
1.- Bộ Trung
luận, gồm có bốn quyển, do Ngài Bồ tát Long Thọ làm ra, mục đích chính phá chấp
của Tiểu Thừa và kèm một phần phụ đã phá sai lầm của ngoại đạo.
2.- Bộ Bách
luận, gồm có hai quyển do Ngài Bồ tát Ðề Bà làm ra, mục đích chính là phá chấp
của ngoại đạo và kèm một phần phụ phá chấp của Tiểu Thừa.
3.- Bộ Thập
Nhị Môn luận, gồm có một quyển, cũng do ngài Long Thọ làm ra, mục đích phá cả
Tiểu Thừa và ngoại đạo.
Tóm lại, ba
bộ luận trên đây, đều phá sự thiên chấp sai lầm của Tiểu Thừa và ngoại đạo và
mục đích cuối cùng là làm sáng tỏ nghĩa lý sâu xa, mầu nhiệm của Ðại Thừa.
Tôn này được
thạnh hành ở Trung Hoa trong đời Dao Tần do công đức hoằng dương của ngài Cưu Ma
La Thập, và trong đời Ðường do công đức của ngài Ðại sư Gia Tường.
II.- Tôn Chỉ Và Giáo Lý căn bản
Như chúng ta
đã thấy trong nội dung của ba Bộ luận căn bản nói trên, chủ trương của tôn này
là phá các điệu tà chấp, nêu bày chánh lý.
Theo Tam luận
tôn, là chấp có bốn loại:
1. Tà chấp
của ngoại đạo: ngoại đạo tức là những học phái hay tôn giáo khác với Ðạo Phật.
Ngoại đạo vị không thấu rõ lý ngã không và pháp không, nên theo chấp chặt tà
kiến, như tà nhơn, tà quả, không nhơn mà có quả, có nhơn mà không quả…những cái
chấp nầy cần phải đả phá.
2. Chấp trước
của Tiểu Thừa Tỳ đàm tôn: Tiểu Thừa Tỳ đàm tôn tức là Câu xá tôn. Tôn này chủ
trương lý ngã không, pháp hữu, nghĩa là cho rằng cái ngã nơi thân người là
không có, nhưng các pháp là có. Quan niệm sai lầm về pháp hữu ấy cần phải phá
trừ.
3. Chấp trước
của Thành thật tôn: Tôn này, tuy chủ trương ngả pháp đều không, nhưng lại chấp
cái “không” ấy là thật “có” ( thật có một cái không), chứ không biết rằng cái
“không ” ấy cũng không hoàn toàn là không, cho nên cần phải phá trừ.
4. Chấp trước
của người tu về Ðài thừa: Người tu về Ðại Thừa không còn những chấp trước mê
lầm về ngã, pháp của ngoại đạo và Tiểu Thừa,đã đoạn trừ những thành kiến chấp
có, chấp không, chấp đoạn, chấp thường, nhưng còn có một số người ôm chặt cái
sở đắc của mìmh, nghe nói “có” thì sa vào có, nghe nói “không ” thì trệ vào
không, nghe nói “trung đạo” thì chấp trước về trung đạo. Cho nên cần phải phá
trừ những chấp trước ấy.
Có người hỏi:
Tam luận tôn chủ trương phá tà như trên, có thể gọi là đầy đủ lắm, nhưng còn
phần hiển chánh thì như thế nào?
- Xin thưa:
Phá hết tà, tức là hiển chánh. Phá cũng tức là lập. Trừ mê tức là ngộ. Như vậy
tà chấp đã bị phá, thời chánh lý tự bày, ngoài sự phá tà, không có chánh lý nào
riêng nữa.
Trong bộ “tam
luận huyền nghĩa” có nói: Sự phá tà hiển chánh phân làm bốn loại:
1. Phá mà
không thâu, nghĩa là trước một đối thủ nói không hợp đạo, thì chỉ phá mà không
thâu.
2. Thâu mà
không phá, nghĩa là đối với người chủ trương hợp với chân lý thì chỉ cần thâu
mà không phá.
3. Cũng phá
mà cũng thâu, nghĩa là đối vơi người học đạo mà còn đầy lòng mê chấp, thì phải
phá trừ chỗ mê chấp và thâu lại giáo nghĩa mà họ đã hiểu lầm.
4. Không thâu
mà cũng không phá, đây là trường hợp khi đã tiêu trừ ba loại nói trên, quy về
một chơn thật tướng: đến đây thì đã xa lìa nói phô, bặt dứt niệm lự, không thể
nói rằng phá, không thể nói rằng thâu.
Chủ trương
phá phá tà hiển chánh trên này có thể cô đọng trong bốn chử sau đây:”Trung đạo
bát bất”.
Trung đạo tức
là đao lý viên dung cũng gọi là đệ nhứt nghĩa đế, nghĩa là cái chơn lý cùng
tột, không gì hơn.
Bát bất tức
là tám cái “Bất” ( chẳng phải):
Bất sanh, bất
diệt, bất thường, bất đoạn, bất nhất, bất dị, bất lai, bất xuất. Hiểu rõ tám
cái “Bất” ấy, tức là nhận chân được nghĩa lý cảu Trung đạo. Chúng ta hãy nghe
bài kệ sau đây trong “Trung đạo” thì rõ:
Bất sinh,
diêĩc bất diệt
Bất thường,
diệc bất đoạn
Bất nhất,
diệc bất dị
Bất lai, diệc
bất xuất
Năng thuyết
thị nhân duyên
Thiện diệt
chư hý luận
Ngã khể thủ
lễ Phật
Chư thuyết
trung đêĩ nhất
Giảng rộng
đoạn văn trên này, ông Phan Văn Hùm, trong quyển Phật Giáo triết học đã viết
như sau:
“Nhất thiết
vạn hửu trong hiện giới đều sinh diệt vô thường”. Sinh diệt vô thường như thế,
nguyên là vì không có tự tánh, mà bởi nhân duyên mê vọng nên sinh ra giả hữu.
Thế tục vì
vọng kiến, nên chấp lấy cái giả hữu đó. Chân trí thời phủ định giả hữu mà nhận
thấy là không …siêu việt được tất cả hữu và vô là cái quan niệm tuyệt đối ấy,
phải biết rằng chư pháp đều do nhân duyên sinh ra.
Chư pháp tuy
là hữu nhưng mà là phi thường hữu. Hữu, mà phi thường hữu là giả hữu. Giả hữu
tuy là hữu mà phi hữu. Hữu mà phi hữu, thời cùng với vô có khác gì? Cho nên chư
pháp tuy là vạn hữu, nhưng uyển nhiên là không .
Lý thể của
chân như, tuy là không tịch, bất sinh diệt, mà bởi nó sanh ra chư pháp, cho nên
nó là căn của giả hữu. Ðã là căn của gỉa hữu, thời mặc dù lý thể của chân như
là không, thật ra nó là phi không. Như thế, chân như là không mà không thật là
không cho nên cùng với hữu có khác gì? Vì thế, rôùt lại, chân như tuy là không
tịch, mà nó uyển nhiên là hữu.
Hữu, không,
hai cái toàn nhiên cùng nhau hỗn hiệp.
Trung đạo ra
ngoài chổ chấp hữu cùng chấp không.
III.- Ba Thời Giáo Lý
Trong phần
tôn chỉ và giáo lý căn bản nói trên, chúng ta thấy Tam-luận tôn bác tất cả các
tôn phái của Tiểu Thừa và một phần của Ðại -thừa. Nhưng dù Tiểu Thừa hay Ðại
-thừa, cũng là dựa trên Giáo lý của Ðức Phật cả. Vậy, bác các tôn phái trong
các đạo Phật, tức là gián tiếp, bác giáo lý của Phật chăng?
Thật ra,
không phải thế. Tất cả lời dạy của Ðức Phật chỉ có một chất chung là sự giải
thoát, như tất cả nước đại dương chỉ có một mùi vị là mặn. Phật nói ra các pháp
môn, đều để đối trị những phiền nảo của chúng sanh. Người lương y dõi tùy theo
chứng bịnh mà cho thuốc, thuốc không cao cấp, lành bịnh là hay. Cũng thế, căn
cơ chúng sanh không đồng nhau, cho nên pháp môn cũng tùy theo đó mà có sai
biệt.
Theo Tam-Luận
tôn, thì giáo lý của Ðức Phật chia làm ba thời kỳ:
-Thời kỳ thứ
nhứt, tại vườn Lộc-Giả vì các bậc căn trí hẹp hòi, Phật nói pháp Tiểu Thừa, tâm
cảnh đều có. Trong thời kỳ này vì cần phải phá cái chấp về tự tách, thần ngã
của ngộ đạo, nên Phật nói “pháp duyên sanh”, xác định là thật có.
-Thời kỳ thứ
hai, Phật vị các bậc căn trí bậc trung, nói “pháp tướng Ðại -thừa”, chỉ rõ đạo
lý Duy-thức “cảnh không tâm có” (thế giới hiện tượng không thật có nhưng tâm
thức thật có). Cũng trong thời kỳ này, Phật lần hồi phá trừ chổ chất của
Nhị-thừa về lý duyên sanh thật có, mà nói lý duyên sanh ấy chỉ là giả dối như
tuồng có mà thôi, vì họ sợ về chổ chơn không , nên phải để “giã hữu” lại đễ dìu
dắt họ.
-Thời kỳ thứ
ba, Phật vị các bậc thượng căn thượng trí nói ra giáo lý “vô tướng Ðại -thừa “,
biện bạch tâm cảnh đều không, một mực bình đẳng là chơn liểu nghĩa. Ðến thời kỳ
này mới thật là chổ rốt ráo của Ðại -thừa, chủ trương duyên sanh ấy tức là tánh
không, một mực bình đẳng, viên dung cả hai đế (chơn đế, tục đế) không ngại.
Tóm lại, thời
ký thứ nhất, phá trừ ngoại đạo, chỉ dạy Tiểu-thừa với giáo lý tâm cảnh đều có.
Thời kỳ thứ hai, thông cả Tiểu-thừa và một phần của Ðại -thừa, (Tam thừa) với
giáo lý cảnh không, tâm có. Thời kỳ thứ ba, chỉ có Nhất thừa, với giáo lý tâm
cảnh đều không, nhưng cái không đây tức là chơn “chơn không, diệu hữu”.
IV.- Phương Pháp Tu hành
Chúng ta đã
thấy ở các phần ở trên, chủ trương của Tam-luận tôn là phá tà, và do chổ phá tà
ấy là hiển chánh. Vậy thì phương pháp tu hành của tôn này là làm sao nhận rõ
được những chổ sai làmm chấp trước của ngoại đạo là các tôn phái khác, tức là
chứng ngộ. Muốn vậy, tức phải thực hành pháp quán “bát bất trung đạo”.
Bát bất tức
là: Bất sinh, bất diệt; Bất đoạn, bất thường; bất nhứt, bất dị; bất khứ, bất
lai. Không ngộ được tám món ấy tức là không rõ chơn đế và tục đế; mà không rõ
được chơn đế và tục đế thì cũng không thể nào nhận thấy được ý nghĩa của trung
đạo.
Pháp quán này
có nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn quán về một phần của “bát bất “; chẳng hạn
giai đoạn thứ nhứt quán về “bất sinh, bất diệt”; giai đoạn thứ hai quán về “bất
đoạn, bất thường…” .
Trong mỗi
giai đoạn như thế phải quán năm câu:
1.- Câu thứ
nhứt: “thật có sinh, thật có diệt”. Aáy là giả thiết thật có sanh diệt như thế
gian thường chấp, để mà bát. Chấp như thế gọi là đơn tục ( đứng riêng về mặt
thế tục), tức nhiên là thiên chấp (chấp một bên), chưa hiệp với trung đạo.
2.- Câu thứ
hai: “không sanh không diệt”. Aáy là chấp không sanh không diệt làm thật, để mà
bát. Chấp như thế gọi là đơn chơn, cũng là thiên chấp, không hiệp với trung
đạo.
3.- Câu thứ
ba: “giả sanh giả diệt”. Aáy là giả lập có sự sanh diệt phát xuất từ nơi bất
sanh bất diệt. Ðây tức là trung đạo về thế tục.
4.- Câu thứ
tư: “giả bất sanh giả bất diệt”. Nếu sanh diệt đã giả, thời sự bất sanh bất
diệt cũng là giả. Aáy là trung đạo về chơn đế.
5.- Câu thứ
năm: “không phải sanh diệt, mà cũng không phải là không sanh diệt”. Ðây là dung
hiệp cả tục đế và chơn đế mà tìm ra lý trung đạo. Thật vậy, thật tướng của pháp
giới không sanh diệt , mà cũng không phải không sanh diệt. Ðến đây là băĩt dứt
lời nói phô, tâm niệm lự, mà chỉ nhờ trực quan mới đạt tới.
Trong năm câu
này, thì ba câu cuối ( từ câu thứ ba đến câu thứ năm) thường gọi là tam trung
(ba lý trung đạo). Vì thế cho nên trong pháp qúan này, người ta thường nói:
dùng năm câu và ba lý trung đạo để quan sát.
Trên đây là
chỉ đưa ra một số thí dụ về một giai đoạn trong pháp “pháp trung đạo bát bất”.
Sau khi quán hết giai đoạn thứ nhất “bất sinh, bất diệt”, hành giả tiếp tục
giai đoạn thứ hai là “bất đoạn, bất thường”. Và cứ như thế mà quán cho đến hết
tám cái “bất”.
Ðây là pháp
quán riêng biệt của tam luận tôn. Ngoài ra trên đường tu hành, hành giả còn tùy
theo căn cơ mà tu các pháp môn khác như Lục độ vạn hạnh.
V. Quả Vị Tu Chứng
Giáo lý đã có
phân chia thành chơn đế và tục đế, thì quả vị tu chứng cũng đứng về hai phương
diện mà xét.
1. Chơn đế:
Nếu đứng về phương diện chơn đế mà xét thì không có vấn đề chứng hay không
chứng, thành Phật hay không thành Phật, vì mê ngộ vốn không, nhiễm tịnh đều
bình đẳng, hết thảy chúng sanh xưa nay là Phật rồi.
2. Tục đế:
Nếu đứng về phương diện tục đế, thì căn cơ chúng sanh không giống nhau, nên sự
tu chứng cũng có chậm có mau. Với những căn cơ rất lanh lợi, thì trong một niệm
có thể thành tựu “chánh quán bát bất”, chứng được quả Phật. Trái lại, với những
căn cơ chậm lụt, thì trải qua ba đại kiếp tu hạnh lục độ vạn hạnh, mới được
thành Phật. Nếu tuần tự mà tiến thì phải trải qua 52 quả vị. Trong các tôn khác
quý độc giả cũng thường nghe nói đến 52 quả vị, nhưng chúng tôi chỉ nêu danh mà
không nói rõ nội dung, đến Tam luận trong này, nên chúng tôi tưởng nên trình
bày rõ một lần về các quả vị ấy, và để sau nầy, khi qua các tôn khác, nếu quý
độc giả có gặp lại 52 quả vị này, cũng sẽ không còn bỡ ngỡ. 52 quả vị ấy là:
Thập tín
(mười bậc lấy đức tin làm gốc):
1. Tín tâm 2.
Tinh tấn tâm
3. Niệm tâm
4. Ðịnh tâm
5. Huệ tâm 6.
Thí tâm
7. Giới tâm
8. Hộ tâm
9. Nguyện tâm
10. Hồi hướng tâm
Thập trụ: Trụ
là an trụ. Các vị Bồ tátkhi mới phát tâm, an trụ nơi mười bực này mà tu hành,
trên cầu chứng được quả Phật, dưới hóa độ chúng sanh. Thập trụ là:
1. Pháp tâm
trụ 2. Trị địa trụ
3. Tu hành
trụ 4. Sanh quý trụ
5. Phương
tiện trụ 6. Chánh tâm trụ
7.- Bất thối
trụ 8. Ðồng chơn trụ
9. Pháp vương
tử trụ 10. Quán đảnh trụ
Thập hạnh:
Mười bực này chú trọng tu hạnhlục độ nhiều hơn các hạnh khác,. Nên gọi là hạnh.
Mười hạnh là:
1. Hoan hỷ
hạnh 2. Nhiêu ích hạnh
3. Vô nhuế
hạnh 4. Vô tận hạnh
5. Ly si loạn
hạnh 6. Thiện hiện hạnh
7. Vô trước
hạnh 8. Tôn trọng hạnh
9. Thiện pháp
hạnh 10. Chơn thiện hạnh
Thập hồi
hướng: Hồi nghĩa là xoay về, Hướng tức là xu hướng. Hành giả đem mười hạnh này
mà quy hướng về ba nơi sau đây:
a/ Xoay sự về
lý, lấy chơn như thật tế mà làm chỗ chứng.
b/ Xoay nhơn
về quả, lấy đạo vô thượng Bồ đề làm chỗ sở cầu.
c/ Xoay mình
về nơi người, một lòn bình đẳng, phổ độ chúng sanh.
Mười hồi
hướng là:
1- Cứu độ
chúng sanh, ly chúng sanh tướng hồi hướng; nghĩa là cứu giúp chúng sanh mà
không chấp trước về sự cứu giúp.
2- Bất hoại
hồi hướng; nghĩa là không bao giờ thối tâm cứu giúp chúng sanh.
3- Dẳng chư
Phật hồi hướng: nghĩa là lòng từ bi cứu giúp chúng sanh cúng bằng chư Phật.
4- Chí nhứt
thế xứ hồi hướng; nghĩa là lòng cứu giúp chúng sanh mỗi việc đều chu đáo.
5- Vô tận
công đức tạng hồi hướng; nghĩa là chất chứa công đức vô tận.
6- Tùy thuận
nhứt thiết kiên cố thiện căn hồi hướng; nghĩa là thuận theo hết thảy căn lành
bền chặt.
7- Ðẳng tâm
tùy thuận nhứt thế chúng sanh hồi hướng; nghĩa là đem tâm bình đẳng tùy thuận
hết thảy chúng sanh.
1. – Như
tướng hồi hướng; nghĩa là các công đức hồi hướng về tự tánh chơn như.
2. – Vô trước
vô phược giải thoát tâm hồi hướng; nghĩa là không chấp trước không ràng buộc,
một lòng giải thoát.
3. – Pháp
giới vô lượng hồi hướng; nghĩa là hướng về pháp giới không cùng tận.
Bốn mươi quả
vị trên này ( Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng) nói về thơig gian
tu tập tùy thuộc vào Kiếp A-tăng kỳ thứ nhứt.
Thập địa:
Mười bực này, vì tóm thâu các công đức hữu vi và vô vi, dùng làm tự tánh, cùng
làm chỗ nương dựa chắc chắn hơn cả cho sự tu hạnh, nên gọi là Ðịa. Mười địa là:
1. Hoan hỷ
địa 2. Ly khổ địa
3. Pháp quan
địa 4. Diệm huệ địa
5. Nan thắng
địa 6. Hiện tiền địa
7. Viễn hành
địa 8. Bất động địa
9. Thiện huệ
địa 10. Pháp vân địa
Trong thập
địa, mỗi địa còn có ba tâm: Nhập, Trụ, Xuất. Khi vừa bước vào một bực nào, gọi
là nhập tâm. Trong lúc ở yên trong bực ấy mà tu, gọi là trụ tâm. Sau khi tu tập
lâu rồi, cần bước qua bực khác gọi là xuất tâm. Batâm ấy đều phải trải qua trăm
ngàn số kiếp. Từ khi nhập tâmvề sơ địa (tức Hoan hỷ địa) đến Thất địa (tức Viễn
hành địa) phải trải qua suốt một kiếp A-tăng kỳ thứ hai. Từ Bát địa ( tức Bất
động địa) đến Thập địa (tức Pháp vân địa) thuộc về kiếp A-tăng kỳ thứ ba.
Ðẳng giác:
Khi đã mãn quả Thập địa thì gọi là Ðẳng giác, là địa vị đã gần đến quả Phật.
Diệu giác:
Tức là Phật quả, tự mình đã giác ngộ, lại giác ngộ cho người, trí giác ngộ và
công phu tu hành đều được đầy đủ, không thể nghĩ bàn nên gọi là Diệu gíac. Bực
này vì các lậu nghiệp đã hết sạch và không còn pháp gì phải học nữa, nên gọi là
Vô-học đạo.
VI.- Kết Luận
Như chúng ta
đã thấy ở các phần trên, Tam-luận tôn chủ trương “lấy phá làm tập”, phá tất cả
những sự chấp trước của đạo ngoại, của Tiểu-thừa Tỳ-đàm, của thành Phật tôn và
của cả một số người tu theo Ðại -thừa. Nhận chân được những sự sai lầm ấy tức
là ngộ rồi đấy. Con đường đi đến chân lý không đâu khác hơn con đường mình đi.
Nhưng muốn khỏi lạc đường và chậm bước, thì phải dẹp tất cả những hình bóng
phỉnh-phờ và những chướng ngại vật trên đường đi ấy. Một khi sự phá dẹp hoàn
thành thì chân lý tự nhiên hiện bày.
Theo thiển
kiến chúng tôi. Tam luận tôn không phải là một con đường Tu như các tôn khác,
mà đúng hơn là một cữa Aủi: Những hành-giả muốn đi từ Tiểu-thừa hay Ðại -thừa
Ðốn giáo, hay Viên giáo thì phải đi ngang cữa Ải Tam luận tôn. Ðến cửa Aủi này,
hành-giả bị lục soát một cách kỹ lưỡng, nếu ai còn mang theo một món hành lý
“chấp trước” gì, thì không thể qua cửa Aủi này được. Hành-giảkhi đi qua cửa Aủi
này là phải thông suốt các vấn đề: có, không, sanh, diệt, thường, đọan, nhất,
dị v.v…
Vậy chúng tôi
mong mỏi quý vị Phật-tử muốn đi xa vào thế giới Trung-đạo hay Viên giáo thì hãy
nghiên cứu cho kỹ Tam luận tôn.
Chúc quý độc
giả thánh công.
Trích trong PHẬT HỌC PHỔ
THÔNG của Hòa thượng Thích Thiện Hoa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét