I.- Duyên Khởi Lập Tông
Tất cả chúng
sanh đều vô thỉ đến nay, vì chấp có thật ngã, thật-pháp mà tạo ra các nghiệp,
rồi bị các nghiệp dắt dẫn nên xoay vành mãi theo bánh xe sanh tử luân-hồi.
Nếu con người
hiểu rỏ một cách chắc chắn rằng: tất cả các pháp trong vũ-trụ, nhân và ngã đều
không thật có, chỉ do thức biến hiện, như cảnh trong chiêm bao, mà không còn gây
phiền não, tạo nghiệp-chướng nữa, thì tất không còn bị ràng buộc, trong bánh xe
sanh tử luân hồi.
Ðể phá trừ
hai món chấp thật-ngã và thật-pháp, Ðức-Phật có rất nhiều phương-pháp, có rất
nhiều pháp thiền, mà Duy-Thức-Tôn hay Pháp-tướng-tôn là một pháp tu rất cần
thiết, rất hiệu-nghiệm để đi đến giải-thoát.
II.- Ðịnh Nghĩa
Tôn này thuộc
về Ðại-thừa, phân-tách vũ-trụ, vạn hữu đều do thức biến hiện.
Duy-thức tôn,
hay Pháp-tướng tôn, như danh từ đã chỉ-định, không nói về tâm tánh chơn như, mà
chỉ nói về tướng của thức, tức cũng là tướng của pháp. Biết rằng từ chơn vọng
hòa hiệp biến thành hình tướng thức A-Lại-Da, rồi tư thức A-Lại-Da sanh ra các
tướng tâm-pháp .v.v…tôn này quán-sát hành tướng của các pháp ấy, nên gọi là ”
Pháp-tướng tôn ” .
Ðứng về
phương diện nguyên-nhân mà nghiên-cứu, tôn này chủ-trương rằng vũ-trụ vạn-hữu,
hay là tát cả các pháp đều do duy-thức biến-hiện, ngoài thức không còn một yếu
tố nào khác nữa nên gọi là ” Duy thức tôn ” .
Vậy ”
Pháp-tướng tôn ” hay ” Duy thức tôn ” cũng đều để gọi pháp-môn mà tôn-chỉ chỉ
la fnghiên cứu, quan-sát hành-tướng và nguyên nhân sanh-khởi của vạn pháp.
Nguyên nhân sanh-khởi ấy là ” Thức ”.
III.- Căn Cứ các kinh sách Sau Ðây
Lập Ra Duy Thức Tông
Như tất cả
các tôn phái khác, Duy-thức tôn cũng căn-cứ vào căn luận của Phật mà được thành
lập ra. Ðó là 6 bộ kinh và 11 bộ luận sau đây:
Sáu bộ kinh
là:
1.- Kinh
Giãi-thâm-mật
2.- Kinh
Hoa-nghiêm
3.- Kinh
Như-lai xuất hiện công-đức trang-nghiêm
4.- Kinh
A-tỳ-đạt-ma
5.- Kinh
Lăng-nghiêm
6.- Kinh
Hậu-nghiêm (hay Mật-nghiêm).
Mười một bộ
luận là:
1.-Luận
Du-già Sư-địa
2.- Luận
Hiển-dương Thánh-giáo
3.- Luận
Ðại-thừa Trang-nghiêm
4.- Luận
Nhiếp Ðại-thừa
6.- Luận
Thập-địa-kinh
7.- Luận
Phân-biệt Du-già
8.- Luận Quán
Sở-duyên-duyên
9.- Luận
Duy-thức Nhị-thập-tụng
10.- Luận Biện-trung-biên
11.- Luận
Tạp-luận
Vị sáng lập
ra Duy-thức chính là Bồ Tát Di-lặc. Ðức-Di-Lặc sau khi tu chứng được Duy-thức,
đã ýwng theo lời thỉnh-cầu của Ngài Vô-trước, nói Luận Du-già Sư-địa.
Hai vị có
công lớn trong việc phát-triển tôn này ở Ấn Ðộ là hai anh em nhà Vô-trước và
Ngài Thế-thân. Ngài Vô-trước dựa theo bộ ” Du-già Sư-địa ” làm ra bộ luận
”Hiển-dương Thánh-giáo ”, và ” Nhiếp Ðại-thừa ”. Ngài Thế-thân lại có công đức
lớn lao hơn nữa, tomtăts lại nghĩa lý Duy-thức, lảma bộ luận ” Duy-thức tam thập
tụng ”. Về sau, có mười vị Ðại Luận-sư, sớ giải bộ Duy-thức tam-thập tụng, làm
thành mười bộ luận chính về Duy-thức .
Ðến đời
Ðường, Ngài Huyền-trang từ Trung Hoa sang Ấn Ðộ thỉnh kinh và tham-cứu về Phật
Giáo. Môn học sở trường của Ngài là Duy-thức. Sau khi trở về Trung Hoa, Ngài
lượm-lặt tinh-hoa của 10 bộ đailuận nói trên, dịch thành Hán-văn, dưới nhan đề
là: ” Thành Duy-thức Luận ”, gồm cả thảy 10 quyển. Ngài Khuy-cơ là đệ-tử lớn
của Ngài Huyền-trang sớ-giải thêm rỏ nghĩa-lý bộ ” Thành Duy-thức Luận ” làm ra
thành 60 quyển, dưới nhan đề là ” Thành Duy-thức thuật-ký ”.
Tóm lại, ở Ấn
Ðộ, vị có công lớn nhất trong sự phát huy Duy-thức tôn là Ngài Thế-thân. Còn ở
Trung Hoa, vị có công lớn nhất trong việc truyền bá Duy-thức tôn là Ngài
Huyền-trang.
Về phương
diện sách vở dạy về Duy-thức, từ xưa đến nay được các học giả xem là chánh-tôn
Duy-thức, thì có ba bộ sau đây:
1.- Ðại-thừa
Bá pháp minh môn luận (tatc giả là Ngài Thế-thân). Nội dung bộ luận này
giải-thích các danh từ chuyên-môn của Duy-thức, nói rỏ 100 pháp và hai món
vô-ngã. Người học Duy-thức nếu không học bộ luận này trước, thì không dễ gì
hiếu được Duy-thức (bộ luận này đã được dịch ra tiếng Việt và chúng tôi lấy
nhan đề là: Duy-thức nhập môn).
2.- Duy-thức
tam thập tụng (cũng do Ngài Thế-Thân tạo ra). Trong bộ luận này Ngài Thế-Thân
dùng 30 bài tụng để giải thích về nghĩa lý chánh của Duy-thức, luận này chia
làm bốn phần:
a). Phần thứ
nhất nói về ba chức năng-biến:
-Thức
năng-biến thứ nhất là thức A-lai-da (thức tứ tám).
-Thức
năng-biến thứ hai là thức Mạt-na (thức thứ bảy).
-Thức
năng-biến thứ ba là sáu thức năng trước.
b). Phần thứ
hai nói về các tâm-sở:
-Biến-hành (5
món)
-Biệt-cảnh (5
món)
-Thiện (11
món)
-Căn-bổn
phiền-não (6 món)
-Tùy
phiền-não (20 món)
-Bất-định (4
món).
c). Phần thứ
ba giải-đáp các nghi vấn:
-Làm sao biết
được phận-vi sanh-khởi của các thức?
-Nếu không có
ngoại cảnh, thì sao có sanh tử và các sự phân biệt?
-Nếu không có
ngoại cảnh, thì sao có chúng hữu-tình sanh-tử?
-Nếu chỉ
thức, tạo sao Phật lại nói có ba tánh?
-Nếu có ba tánh,
tại sao Phật nói ba món vô-tánh?
d).Phần thứ
tư nói về đệ tu Duy-thức:
Từ khi phát
tâm tu Duy-thức cho đến khi chứng được Duy-thức tánh thành Phật, hành-giả phải
trải qua năm địa vị, thứ lớp như sau đây:
-Vị Tư-lương
(như lương thực cửa người đi đường).
-Vị gia hạnh
(gia công tấn hàng).
-Vị thông-đạt
(thấu suốt đường lối).
-Vị tu-tập
(tu-hành tập-luyện).
-Vị cứu cánh
(đến cùng tột địa vị tu chứng).
3.- Bát-thức
qui-cũ tụng (tác giả là Ngài Huyền-trang). Nội dung của quyển này, Ngài
Huyền-trang dùng 12 bài tụng để toát yếu lại nghĩa-lý Duy-thức, gồm có bốn
phần:
a). Phần thứ
nhất nói về năm thức đầu
b). Phần thứ
hai nói về thức thứ sáu .
c). Phần thứ
ba nói về thức thứ bảy
d). Phần thứ
tư nói về thức thứ tám.
Mỗi một phần
có ba bài tụng, hai bài tụng đầu nói hành-tướng các thức, khi hành-giả còn ở
địa vị phàm-phu; bài tụng thứ ba nói hành-tướng các thức, khi lên quả-vị Thánh.
Tóm lại, ba
bộ luận trên này, người muốn học Duy-thức, khôngthể bỏ qua được.
IV.- Chủ Trương Của Duy Thức Tông
Chủ-trương
của Duy-thức tôn là phá trừ vọng chấp ngã, pháp (biến kế sở chấp), bằng cách
chỉ cho chúng sanh thấy tất cả các pháp đều nương nơi thức hiện ra (y-tha
khởi), và mục dích cuối cùng lá đưa chúng sanh trở về với tánh chân thật
(viên-thành thật). Thế-giới hiện-tượng này này, vì mê-mờ, chúng ta tưởng là
chắc thật, nhưng hteo chủ trương của Duy-thức học, thì vũ-trụ vạn-hữu đều là
Duy-thức biến-hiện. Cũng như sơn hà, đại địa trong cảnh chiêm bao, không có
cảnh vật ấy.
Vậy, nếu chỉ
cho chúng sanh thấy được một cách rỏ ràng, vũ-trụ vạn-hữu do thức biến-hiện ra
như thế nào, thì chắc chắn chúng sanh sẽ không còn chấp thật ngã, thật pháp
nữa. Cũng như khi biết cảnh vật trong chiêm bao là do tâm chiêm-báoanh ra thì
không còn mê muội nơi cảnh chiêm-bao nữa. Mà không còn chiêm-bao tức đã
thức-tỉnh. Cũng thế, khi không còn chấp thật ngã, thật pháp nữa, tất sẽ thấy
được cảnh chân-thật của vũ-trụ vạn-hữu, (tánh viên thành-thật) . đó là chủ
trương của Duy-thức tôn.
Nói một cách
vắn tắt, chủ trương của Duy-thức tôn là quy vũ-trụ vạn-hữu trở về Duy-thức
tướng, rồi từ Duy-thức tướng trở về Duy-thức tánh (tâm chơn-như hay tánh
viên-giác).
V.- Thành Phần Của Hiện Tượng Giới
(vũ-trụ
vạn-hữu gồm cả tâm và pháp ).
Phân Loại
Theo Duy Thức Tông
Hiện tượng
giới, tức là vạn sự vạn vật trong vũ-trụ (gồm cả tâm lẫn vật), tuy nhiên không
thể kể xiết được, nhưng dưới nhãn-quan của nhà Duy-thức học, có thể phân ra
thành năm loại; năm loại này lại chia thành 100 thành phần hay 100 pháp.
Năm loại lớn
ấy là:
1.- Tâm-vương
tức là ” tướng ” của thức, thuộc về tâm-giới.
2.- Tâm-sở
tức là ” dụng ” của thức, cũng thuộc về tâm-giới.
3,- Sắc-pháp
tức là ”ảnh-tượng” của thức, thuộc về sắc-giới.
4.-
Bất-tương-ứng-hành tức là ”phận-vị sai khác” của thức, không phải thuộc hẳn về
tâm mà cũng không thuộc về sắc-giới, nhưng gồm cả hai phần mà thành.
5.-Vô-vi tức
là ”tánh” của thức, cũng gọi là ”chơn như ”
Bốn loại
trên: tâm-vương, tâm-sở, sắc-pháp, bất tương ưng hành đều thuộc về ” hữu
vi”,tức là ” tướng ,có sanh diệt.
Loại thứ năm,
là pháp “vô vi”, không sanh diệt, không tạo tác, tức là ” tánh ” của các pháp,
hay chơn như.
Năm loaại lắn
trên đây, môĩ loại lại chia làm nhiều thành phần, có những tác dụng hành tướng
riêng biệt, mà chúng ta cần nghiên cứu kỷ sau đây:
1.-Tâm vương
Tâm vương gồm
có tấm món, mỗi món có những đặc tánh, khả năng và nhiệm vụ riêng biệt, như mỗi
ông vua làm chủ mỗi nước, nên gọ là tâm vương. Tám phần của tâm vương là:
a) Nhãn thức
b) Nhĩ thức
c) Tỹ thức
d) Nhận thức
đ)Thân thức
e)Ý thức
h)A-lại da
thức
Chúng ta có
năm giác quan, mỗi giác quan có một sỡ năng, một cái biết riêng: khi ta nhìn
một cái hoa, biết cái hoa ấy màu vàng hay đỏ v.v…cái biết ấy thuộc về con mắt,
nên gọi là nhãn thức. Khi chúng ta nhge đàn, biết tiếng đàn ấy cao hay thấp, to
hay nhỏv.v…cái biết ấy thuộc về tai, nên gọ là nhĩ thức. Khi ta ngữi một mùi
gì, biết được mùi ấy thơm hay hôi, cái biết ấy thuộc về mũi, nên gội là tỷ
thức. Khi chúng ta nếm một món ăn gì, biết được món ăn ấy mặn hạylat, chua hay
ngọt, cái biết ấy thuộc về lưỡi, nên gọi là thiệt thức. Khi chúng ta đụng vào một
vật gì, biết vật ấy cứng hay mềm, nóng hay lạnh, cái biết ấy thuộc về thân thể,
nên gọi là thân thức.
Năm cái biết
trên này: Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiềtva Thân thức, thuộc về năm giac quan bên ngoài
nên chúng ta dễ nhận.
Ba cái biết
sau này: Ythưsc, Mạt-na- thức, A-lại-được-thức, thuộc về nội tâm, và theo thứ
lớp, ẩn sâu vào trong, tế nhị hơn, nên khó nhận khó biết. Tuy thế, đối với nhà
duy thức học, người ta cũng có thể nhận biết được rành rẽ hành tướng
phân biệt
được phạm vi hoạt động, sở trường , sở đoản và công năng của mỗi thứ.
Trước tiên,
chúng ta nói đến thức thứ sáu hay”Ý thức”.
Yĩ thức có
hai phạm vi hoạt động:
-Khi nào ý
thức hiẹp với năm thức trước, tiếp xúc với cảnh, thì gọi là ” Ngủ của ý thức”,
hây là ” Minh liẽu ý thức”. Trong lúc mắt thấy sắc, tai nghe tiếng v.v…mà không
có ý thức phụ vào (để ý) thì mặc duù mắt vẫn thấy, tai vãn nghe, nhưng thấy
nghe không được rõ ràng. Sách nho chép:”Tâm bất tại diên, thị nhi bất kiến,
thính nhi bất văn” ( nếu không chú ý, thì dù xem cũng chẵng thấy, lắng cũng chẵng
nghe). Trái lại, khi có ý thức phụ vào, thấy nghe v.v…đều minh bạch.
-Khi nào ý
thức làm việc một mình, không cùng hợp tác với năm thức trước, thì gọi là “Ðơn
độc ý thứ” hay “Ðộc đầu ý thức”.như trong lúc năm thức trước không tiếp xúc với
sắc, thanh, hương, vị và xúc, mà trong tâm trí vẫn lưu lại bóng dáng(pháp trần)
của năm trần. Khi chúng ta nhớ tưởng lại, thì cảnh ngủ trần in như hiện rõ ràng
ở trước, đó là công dụng của ” Ðộc đầu ý thức”. Thức thứ sáu này, khi tính
tóan, suy nghĩ việc gì, thiện hay ác, hay hay dở, cũng đều lanh lợi đảm đang
hơn các thức khác, nên trong duy thức nói:” Công vi thủ, tội vi khôi”( Có
cngthì nó đứng đầu, mà có tội nó cũng đứng đầu).
Thức thứ sáu,
tuy sở trường là khôn ngoan lanh lợi, nhưng lại có sở đỏan là bất thường, không
phải lúc nào cũng hiện diện, mà lại có khi gián đoạn, ẩn phục, như trong lúc bị
hụp thuốc mê, chết giả, ngủ say, hay nhập vô tưởng định v.v…Qua những giai đọan
ấy, ý thức lại hiện trở lại.
Vậủy trong
lúc ý thức không hiện, nó núp ở đâu?
Theo duy
thức,khi đó, thức thứ sáu trở về gốc của nó là ý căn, tức là thức thứ bảy hay
thức Mạt-na. Theo tâm lý họcthì cũng có thể gọi là tiềm thức.
Thức thứ bảy
này có hai công năng:
-Chấp ngã;
-Làm căn bản
choÝ thức thứ sáu.
Nnó có công
là đem các pháp hiện hành bên ngoài ”truyền” vào tạng thức và đem các pháp
chủng tử bên trong ”tống” ra ngoài nên nó có tên là ”truyền tống thức”. Sự cháp
ngã của tức này và của thức thứ Sáu, có thô và tế khác nhau. Khi nào để ý bảo
thủ bản ngã, như khi ra trận bắn nhau với địch quân, khi đánh lộn, hay tìm một
kế gì để sanh nhai, thì sự chấp ngã ấy thuộc về thức thứ Sáu. Thực ra không có
lúc nào chúng ta không chấp ngã, sự chấp ngã vẫn thường trực trong chúng ta .
nhưng nó âm thầm, sâu kín, tiềm trực, nên chúng ta không nhận thấy được. Ðến lúc
bất ngơ, đột nhiên xãy ra một sự việc gì đó có nguy hại đến tánh mạng ta, như
bất thần có người rình rập, hay đi ra đường bị nhành cây gãy sắp rơi xuống
đầu…trong những lúc ấy, tuy thức thứ Sáu không kịp để ý can thiệp, đối phó mà
ta vẫn tự tránh né, bảo thủ cái ngã. Ðó là ự chấp ngx của thức tứ bảy.
Ngoài bảy
thức nói trên, còn có một thức thứ tám tế nhị, sâu kín mênh mông hơn nữa, đó là
thức A lại da, Tàu dịch là tàng thức, nghĩa là thức ”Tích chứa”.
Từ nhỏ đến
lớn chúng ta đọc rất nhiều sách, tếp xúc với nhiều sự vật, rồi thời gian cứ
tuần tự trôi qua, chúng ta tưởng đã quên mất rồi. Thế mà không ! Mỗi khi ngĩ
dến thì danh từ, hình ảnh của những vật xưa củ hiện ra rỏ ràng như một cuốn
phim quay lại ở trước mắt. Những danh từ hình ảnh ấy, vì sao mấy chục năm qua
mà vẫn còn lại? Tất nhiên phải có một cái kho vô tận chứa lại, nên mới không
mất vậy ! Kho vô tận này trong duy thức tôn gọi là tàng thức (thức chứa).
Ðể cho dễ nhớ
hành tướng và công năng của tám thức nói trên, cổ nhân có làm bài kệ rằng:
Nguyên văn:
Bát cá đệ
huynh, nhứt cá si
Ðộc hữu nhứt
cá, tối linh tinh
Ngủ cá môn
tiền tô úmãi mại
Nhất cá gia
trung tác chủ y.
Dịch nghĩa:
Anh em tám
chú một người si (thức thứ bảy)
Một mình ý
thức rất tinh ranh (thức thứ sáu)
Năm chàng
ngoài cửa lo buôn bán (năm thức trước)
Làm chủ trong
nhà, thức lại da (thức thứ tám).
2.- Tâm sở
Tâm sở là
tánh sở hữu, phụ thuộc của Tâm vương, cũng như ông quan trong triều, phụ thuộc
dưới quyền sai sử của ông vua, hay những nhân viên phụ thuộc dưới quyền sử dụng
của vị Bộ trưởng. Tâm sở có tất cả 51 pháp, chia làm sáu loẵi như sau:
1.- Biến hành
Tâm sở: Biến là phổ biến, hành là lưu hành; Biến hành Tâm sở nghĩa là những tâm
sở có công năng phổ cập lưu chuyển khắp cả tám thức (tâm vương), với thức nào
nó củng tương ưng được cả. Biến hành Tâm sở gồm có 5 pháp là: Xúc, Tác ý,
Thọ,Tưởng và Tư.
2.-Biệt cảnh
Tâm sở: Biệy là riêng biệt, Biệt cảnh Tâm sở là những tâm sở riêng mỗi cảnh
khác nhau, như dục Tâm sở duyên riêng với cảnh mà mình ưa muốn; Huệ tâm sở
riêng với cánh mà mình quan sát…chứ không phải như Biến hành tâm sở. Biệt cảnh
Tâm sở gồm có 5 pháp là : Dục, Thắng giải, Niệm, Ðịnh và Huệ.
3.- Thiện Tâm
sở: Thiện Tâm sở là tâm sở lành và có công năng phát sanh những điều lành mà
thôi. Thiện tâm sở gồm có 11 pháp là: Tín, Tàm, Quý, Vô tham, Vô sanh, Vô si,
Tinh tấn, Khinh an, Bất phóng dật, Hành xã và Bất hại.
4.-căn-bản
phiền-não tâm sở: những tâm-sở này gây phiền não, rối loạn cho chúng sanh. Ðây
là những phiền-não làm cội góc cho các phiền-não phát sinh, nên gọi là căn bản
phiền-não. Căn bản phiền-não bao gồm có sáu pháp là: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi,
Aĩc-kiến.
5.- Tùy
phiền-não tâm-sở: Những tâm-sở này nương tựa, phát sanh từ các phiền-não căn
bản tâm sở nói trên, nên gọi là tùy phiền-não. Những tâm sở căn bản phiền-não
trên là góc mà những tâm sở phiền-não này là ngọn. Tùy phiền-não tâm sở gồm có
50 pháp là: Phẫn, Hậu, Phú, Não, Tật, Xan, Cuốn, Siển, Hại, Kiêu, Vô-tàm,
Vô-quí, Trạo-cử, Hồn-trầm, Bất-tín, Giải-đãi, Phóng-dật, Thất-niệm, Tán-loại,
Bất-chánh-triều.
6.- Bất định
tâm sở: Bất-định nghĩa là không nhất định; bất định tâm sở là những tâm sở
không nhất định thiện hay ác; không đứng hẳn về một phía thiện hay ác; như các
pháp nói trên. Bất định tâm sởn gồm có bốn pháp là: Hối, Miên,Trầm, Tư.
3.-Sắc pháp
Sắc-pháp tức
là những pháp có thể hư nát và có tánh cách chướng ngại. Sắc-pháp là sự phối
hợp của năm căn và sáu trần, cộng tất cả là 11 pháp:
Năm căn là:
Nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân.
Sáu trần là:
Sắc, thinh, hương, vị, xúc, và pháp trần.
4.- Bất
tương-ưng hành pháp
Các pháp này
không thuộc về sắc mà cũng không thuộc về tâm; nhưng chúng nó không thể rời sắc
và tâm mà có được. Thí dụ như ”đắc” (được) là một ”bất tương-ưng pháp”. ”được”
không thể là sắc mà cũng không thể nào là tâm. Nhưng khi nói ”được”, tức là hàm
cái nghĩa ”được” một cái gì, nhưng ”được” một đồng bạc chẳng hạn, va fphải có
một yếu tố thứ hai là ”ai” được. Ðồng bạc thuộc về sắc, ”ai” thuộc về tâm. Còn
”được” không phải lá sắc và tâm mới có. Ðó là một thí-dụ để chúng ta suy-gẫm về
những pháp Bất-tương-ưng khác, như mạn-căn, sanh, trụ, dị, diệt, phương, thế
tốc .v.v.. gồm tất cả là 14 pháp.
5.- Vô-vi
pháp
Như đọan trên
đã có nói, pháp vi-vô là pháp không sanh, không diệt, không tạo-tác, không thay
đổi, xa lìa tướng hư vọng., tức là thể-tánh của các pháp. Các pháp vô-vi, đối
với phàm-phu thì khó có thể nói-năng, nghĩ bàn, so sánh được. Tuy thế, để có
một ý-niệm về thể-tánh chơn-như, nhà chủ trương Duy-thức dựa vào sắc tướng,
danh tự để hình dung các pháp vô-vi. Do đó, mà đặt sáu pháp vô-vi sau đây:
a). Hư không
vô-vi: Muốn nói thể-tánh chơn-như, xa lìa các đều chướng ngại, giống như
hư-không.
b).Trạch-diệt
vô-vi: Trạch là lựa chọn, Diệt là diệt trừ, nghĩa là nhờ các sự lựa chọn
đứng-đắn của Trí-huệ vô lậu mà diệt trừ được sự phiền não nhiễn trước , chứng
ngộ cứu cánh.
c). Phi-trạch
diệt vô-vi: trên thì nói nhờ sự lựa chọn, đứng đắn của trí-huệ mà diệt trừ được
sự phiền não nhiếm trước. Nhưng nói thế không có nghĩa rằng pháp-tánh nhờ có sự
diệt trừ phiền-não mới có được. Pháp-tánh vốn đã có sẳn, xưa nay là vốn là
thanh-tịnh, không có nhiễm ô, không có sanh diệt, cho nên gọi là phi-trạch diệt
vô-vi. Lại có nghĩa thứ hai là vì thiếu duyên, nên các phiền-não nhiễm-ô không
hiện; vì thế mà pháp vô-vi thanh-tịnh tự hiện ra, không cần có sự trạch diệt.
d).Bất động
diệt vô-vi: khi đã xa lìa các phiền-não, về cõi tịnh lự thứ ba, thuộc về
sắc-giới, dứt bỏ những sự vai buồn, thường tương ưng cùng xả thọ, không còn bị
lay động bỡi một sắc tướng gì nữa, nên gọi là bất động diệt vô-vi: Khi đã xa
lìa các phiền não , về cỏi tịnh lự thứ ba, thuộc về sắc giới, dứt bỏ những sự
vui buồn, thường tương ưng cùng xả thọ, không còn bị lay động, bởi một sắc
tướng gì nữa, nên gọi là ”Bất động diệt vô-vi ”.
e). Tưởng thọ
diệt vô-vi: Khi đã xa lìa được phiền não ở cõi thứ ba thuộc về vô sắc giới, các
tâm sở ” tưởng, thọ” đều tịch diệt, chơn như hiện ra, nên gọi là ” Tưởng thọ
diệt vô-vi”.
f) Chơn như
vô-vi: Năm pháp vô-vi trên này là hình dung các đức tánh của chơn như; pháp thứ
sáu này là “Chơn như vô-vi”, mới chỉ đích danh bản thể chơn như.
Ðể người đọc
dễ nhớ 100 pháp vừa kể trên này, cổ nhân có làm một bài kệ, tóm tắt như sau.
Nguyên văn:
Sắc pháp thập
nhất, tâm pháp bát
Ngũ thập nhất
cá tâm sở pháp
Nhị thập tứ
chủng bất tương ưng
Sáu món vô
vị, thành trăm pháp
Dịch nghĩa:
Sắc pháp mười
một, tâm pháp tám
Năm mươi mốt
món tâm sở pháp
Hai mươi bốn
món bất tương ưng
Sáu món vô-vi
, thành trăm pháp .
VI.- Phương
Pháp tu hành
Như chúng ta
đã biết vũ trụ vạn hữu tuy vô cùng phức tạp, nhưng nhà duy thức học có thể sắp
xếp thành 100 loại (bách pháp ). Một trăm loại này, tuy hình tướng công năng có
khác nhau, chung cục lại cũng đều Thức cả.
Vậy phương
pháp tu hành của nhà duy thức học là làm thế nào để chứng ngộ cái lý nói rên,
thế nhập với cái chơn lý ấy. Ðể đạt được mục đích này nhà duy thức học dạy phải
thực hành 5 pháp quán sau đây, gọi là ”Ngũ trùng duy thức quán”. với năm pháp
quán này,hành giả đi từ thô đến tế, từ phức tạp đến tinh thuần, để cuối cùng
chỉ còn thấy có thức tánh, tức là tâm chơn như.
1.- Bỏ cái hư
giả, lưu lại cái hư thật. (khiển hư, tồn thật): Bỏ cái hư giả ức là các vọng
chấp thật có ngã, có pháp do cái tánh ” biến kế chấp” tạo ra. Lưu lại cái chân
thật, tức là cái tánh ” y-tha-khởi” và ”viên-thành”. Nói một cách khác cho dễ
hiểu, trong pháp quán này, hành giả phải quán ngã và pháp là không thật ( hư)
để phá trừ cái chấp thật có. Hành giả lại quán tánh y tha, viên thành là thật
có (thật) để phá trừ chấp không. Trong lối quán duy thức từng thứ nhất này,
”có” và ”không” đối đãi nhau, để bỏ” biến kế chấp” lưu lại ”y tha” và ”viên
thành”.
2.- bỏ cái
lộn lạo, lưu lại cái thuần túy (xả lạm lưu thuần): Cái lộn lạo nói ở đây là
tướng phần (nội cảnh); có thuần túy ở đây là kiến phần. Bỏ cái lộn lạo, lưu cái
thuần túy, tức là bỏ phần ”tướng” bị duyên (sở duyên) mà lưu lại cái phần
”kiến” là phần năng duyên. Ðây là quán thứ hai về lối duy thức, lấy tâm (năng)
và cảnh (sở) đối đãi với nhau, và mục đích là bỏ cảnh (xả lạm) mà chỉ giử lại
tâm (lưu thuẩn). Lối quán thứ nhất là bỏ vọng cảnh ngoài tâm; lối quán thứ hai
này là bỏ cảnh nội tâm là tướng phần của thức.
3.- Ðem cái
ngọn trở về gốc (nhiếp mạt quy bổn): Cái ngọn ở đây tức là muốn nói tướng phần
và kiến phần, còn gốc ở đây tức là tự chứng phần. Kiến phần và kiến phần là
”dụng” đều y theo tuẹ chứng phần mà khởi ra, nên gọi là ngọn; còn tự chứng phần
là ”thể tánh” cho nên gọi là gốc. Lối quán duy thức thứ ba này là đem ”dụng” và
”thể” đối đãi với nhau, mà mục đích là bỏ cái phần thuộc tương đối ít quan
trọng là dụng (kiến phần), chỉ giử lại cái phần căn bản là thể (tự chứng phần).
4.- Giấu cái
liệt làm hiển lộ cái thắng (ẩn liệt hiển thắng): Cái Liệt muốn nói ở đây tức là
các tâm sở, cái Thắng tức là các tâm vương. Tâm sở phụ thuộc vào cái tâm vương
nên gọi là liệt, hay kém ; tâm vương là phần sai sử chủ động, nên gọi là thắng,
hay hơn. Lối quán duy thức thứ tư này là đem 51 món tâm sở so sánh với 8 món
tâm vương, và mục đích là dẹp bỏ các món tâm sở và làm hiển lộ 8 món tâm vương.
5.- Bỏ thưc
tướng về thức tánh (khiển tướng chứng tánh): Bốn tầng quán Duy thức trên, tuy
rốt ráo chỉ còn giử lại các món tâm vương, nhưng tâm vương cũng có sự tướng và
lý tánh. Lối quán thứ năm này là đem sự tướng đối đãi với lý tánh, mà mục đích
cuối cùng là bỏ sự tướng của thức (thức tướng) để trở về với lý tánh của thức
(thức tánh), tức cũng là chứng nhập Pháp tánh hay tâm Chơn như (quý độc giả
muốn hiểu rỏ thêm, xin xem bài duy thức quán đâị cương của Ngài Thái Hư Pháp
sư).
Ngoài năm lớp
quán Duy thức của cổ nhơn mà chúng tôi vừa kể trên, còn có một lối tu nữa rất
dễ dàng và thiết thực, hợp với đại chúng là chúng ta thường quan sát và kiểm
điểm nội tâm của mình.
Chúng ta hãy
độc kỹ về hai lọai Phiền não tâm sở và Thiện tâm sở trong Duy thức, để nhìn rỏ
mặt mày tướng trạng, công dụng, tánh tình và danh tự của chúng. Rồi hằng ngày
chúng ta kiểm điểm ở nội tâm: Mỗi khi hiện lên một tâm niệm gì, chúng ta kiểm
điểm và quan sát thật kỹ tâm niệm này thiện hay ác (phiền não). Nếu tâm niệm
thiện thì chúng ta nuôi dưỡng cho nó phát-triển thêm, còn nếu tâm niệm ác thì
chúng ta mau mau lo diệt trừ đi. Chúng ta biết sữa đổi tâm niệm xấu (tu tâm) và
nuôi dưỡng tánh tốt (dưỡng tánh) như thế phải thì chúng ta se ỵthành được Thánh
hiền (xem quyển tu tâm và dưỡng tánh).
VII.- Hành Giả Phải Trải Qua Năm Ðịa
Vị Trong Khi Tu Duy Thức
Người tu học
pháp môn Duy thức, cũng như kẻ bộ hành, từ khi nãy sinh ra cái ý định muốn đi
cho đến tới đích, phải trải qua năm giai đoạn hay năm địa vị như sau:
1.- Vị tư
lương: Tức là thời gian chuẩn bị như người sắp đi xa, phải chuẩn bị lương thực
trước lúc lên đường.
Trong Duy
thức Tam thập tụng:
Nguyên văn:
Nãi chí vị khởi
thức
Cầu trụ Duy
thức tánh
Ư nhị thủ tùy
miên
Du vị năng
phục diệt
Nghĩa là: Từ
khi chưa phát tâm cho đến khi phát tâm cầu an trụ Duy thức tánh, trong thời
gian đó, hai món thủ (ngã chấp, pháp chấp) hãy còn miên phục, hành giả chưa có
thể chinh phục diệt trừ được.
2.- Vị Gia
hạnh: Hành giã gia công tấn hạnh, cũng như người định đi xa, sau khi đã chuẩn
bị đủ hành lý cách bước lên đường.
Trong Duy
thức tam thập tụng có chép.
Nguyên văn:
Hiện tiền lập
thiểu vật
Vị thị duy
thức tánh
Dĩ hữu sở đắc
cố
Phi thật trụ
duy thức
Nghĩa là: Nếu
hiện tiền còn thấy mình an trụ duy thức tánh, dù nhỏ nhiệm bao nhiêu thì cũng
chưa phải thật an trụ Duy thứ tánh, vì còn có chổ sở đắc vậy.
3.- Vị Thông
đạt: Hành giả thông suốt đường lối tu hành, cũng như người bộ người bộ hành.nghiên
cứu kỹ lưỡng con đường mình sắp đi, biết rỏ đoạn nào tốt, đoạn nào xấu, đoạn
nào nguy hiểm, đoạn nào không …
Trong Duy
thức tam thập tụng có chép:
Nguyên văn;
Vô đắc bất
đắc nghị
Thị xuất thế
gian trí
Xả nhị thô
trọng cố
Tiện chứng
đắc chuyển y.
Nghĩa là:
cảnh giới “vô dắc”này không thể nghĩ bàn; đây là trí xuất thế gian vô lậu. Do
đã xa lìa được hai món thô trọng ( phiền não chườngva sở triều chướng ),
hành-giả chứng được hai món chuyển y ( Bồ-Ðề và Niết bàn).
5.-Vị cứu
cánh:Quả vị rốt ráo của sự tu chướng, tức là quả Phật , cũng như người đi đường
đã hòan toàn tới chỗ.
Trong
Duy-thức tam thaạp tụng có chép:
Nguyên văn:
Thử tức vô
lậu giới
Bất tư nghị,
thiện , thường
An lạc, giải
thoát thân
Ðại Mâu-nhiều
danh pháp .
Nghĩa là: đay
là cảnh giới vô lậu, cũng gọi là:a) Bất tư nghị, b)Thiện, cũng) Thường, được)
An lạc,đời) Giải thoát thân, e) Ðại Mâu nhiều, cũng gọi là pháp thân ( quý vị
muốn rõ thêm, xem cuốn Duy-thức học, tập Và tức là Duy-thức tam thập tụng ).
VII.-Kết
Quả Tu Chứng
a)Hành-giả :
sau khi đã dày công tu luyện pháp mê vọng, năm thức trước của chúng tánh là
nhãn, nhĩ, tỹ, thiềt và thân thức, duyên với cảnh giới năm trần là sắc, thanh,
hương, vị và xúc trần;nhờ thế mà chúng ta mới thấy được sắc, nghe được tiếng ,
ngữi được mùi, nếm được vịvà cảm giác được cảnh giới chung quanh. Nhưng cái giá
trịvà tầm hoạt động cũng như công dụng của năm thức ấyât nhỏ hẹp và thường hay
sai lạc, nhận giả làm thật. Do đó, chúng ta tạo ra các nghiệp sanh tử luân hồi,
quay cuồng trong lục đạo. Ðối với người tu Duy-thức khi đã thành tựu rồi, thì
năm thức này chuyển ra thành cái trí” thành sở tác”, nghĩa là cái trí này có
những công năng vô cùng rộng lớn như thị hiện thần thông biến hóa, hiện ra ba
món hóa thân, đẻ tùy theo căn cơ của chúng sanh mà hóa dộ.
b)Diệu quán
sát trí:khi đang còn ở trong mê thức thứ sảucghi biết so đo, tính toán trong
phạm vi nhỏ hẹp, tầm hoạt động không thể bao quát cùng khắp được . do đó nên nó
thường hay sai kạc, lầm lẫn, và lôi kéo thân và miệng làm nhiều điều tội lỗi,
tạo ra các nghiệp sanh tử luân hồi. Ðến khi đã chứng được Duy-thức quả rồi, thì
cái thức thứ sáu nàychuyển thành cái trí diệu quan sát, nghĩa làcái trí quan
sát rát là mầu nhiệm, có thể thấy được hằng sang thế giới; trong mỗi thế giớ
thấy được toàn thể chúng sanh, trong mỗi chúng sanh thấy được bao ngạc nhiêu
tâm niệm v.v…Và nhờ sự quan sát huyền diệu rốt ráo như thế mà tùy theo nguyện
vọng, taam lý, làm lợi lạc cho chúng sanh.
c)Bình đẳng
tánh trí: Trong khi mê, thức thứ bảy chấp kiến phần của thức thứ tám là ngã.
Khi đã chấp “ngã” tất nhiên chỉ biết có ngã là quan trọng nhất, và mọi ý nghĩ,
mọi hành động, mọi lời nói gì cũng đều quy tụ chung quanh cái ngã. Diều gì
thích hợp với cái ngã thì yêu thương, chiều chuộng, cưng dưỡng, diều gì trái
với cái ngã thì khinh ghét,hất hũi, chà đaạp. Do đó, gaay ra không biết bao
nhiêu là bất công, bất bình đẵng làm xáo trộn, điêu đứng phá hũy cõi trần gian
này. Ðến khi chứng được Duy-thức quả, thức thứ bảy này không còn chấp ngã nữa,
mà chỉ thấy mình và người , cho đến lòai vật đều như nhau. Khi đã có được trí
bình đẵng rồithi sẽ dùng tâm từ bi hiện đủ phương tiện, để tùy theo căn cơ mỗi
loài mà hóa độ, làm cho chúng sanh đều được giải thoát.
d). Ðại viên
cảnh trí: Khi còn mê-mờ bị thức thứ Bảy chấp ngã và bị các chủng-từ phiền-não
hữu-lậu, nhiễm-ô chi-phối, nên thức thứ Tám không được sáng suốt thanh-tịnh.
Ðến khi nhờ tu-hành, chứng được Duy-thức tánh, thì thức thứ Tám này trở thành
như một cái gương lớn được lau chùi sạch bụi-bặm, có thể phản chiếu khắp cả
mười phương thế-giới, nên gọi là ”Ðại viên cảnh trí”.
2.- Hai trí:
Bốn trí trên
này, tuy có phân chia khác nhau, tùy theo công năng của mổi thứ, nhưng rốt lại,
có thể gồm hai trí sau đây là Căn-bản trí và Hậu-đắc trí.
a). Căn-bản
trí: Tức là trí thể, chư Phật có chúng sanh đều sẳn có. Trí này cũng gọi là Vô
phân-biệt trí.
b). Hậu đắc
trí: Trí là trí dụng. Sau khi chứng quả Thánh, được Căn-bản trí rồi mới được
Hậu-đắc trí. Trí này cũng gọi là Sai-biệt trí; nghĩa là trí phân biệt các pháp
do tánh y-tha-khởi mà có sai khác.
Tóm lại,
thành quả rốt-ráo của người tu học Duy-thức là chuyển đỗi được tám thức thành
bốn trí là: Thành-sở-tác trí, Diệu-quán-sát trí, Bình-đẳng-tánh trí vá
Ðại-viên-cảnh trí. Ðứng về mặt thể và dụng mà xét thì bốn trí này chỉ gồm lại
làm hai là: Căn-bản trí và Hậu-đắc trí. Khi đã được hai trí này hành-giả đã
chứng được Duy-thức tánh, ngộ nhập chơn-tâm, hoàn thành quả Phật.
IX.- Lợi Ích Thiết Thực
Trong Khi Học Và Tu Duy Thức
Kết quả thu
hoạcgh được như trên, hành-giả tất phải trải qua nhiều kiếp tu-hành. Nhưng
chúng ta đừng thấy con đường đi qáu xa-xôi, diệu vợi mà nản chí. Vã lại không
phải đợi đến khi thu hoạch được kết-quả cuối cùng mới nhận chân được sự lợi ích
của pháp môn này. Ngay trong khi đang tu học, môn Duy-thức này cũng đã đem lại
cho chúng ta nhiều lợi ích thiết thực cho đời sống hiện tại rồi.
1.- Chúng ta
tự biết được mình một cách rỏ-ràng: Từ hồi nào đến giờ, chúng cho ta thân tâm
này là của tánh, tưởng rằng chúng ta đã hiểu rõ bản thân tánh nhiều lắm. Nhưng
nghĩ cho kỹ, chúng ta chỉ biết sơ sài về ta mà thôi. Về thân xác này, chúng ta
chỉ thấy được những bộ phận ở bên ngoài như mặt, mũi, tay, chân v.v…Muốn biết
các bộ-phận bên trong, chúng ta tất phải học khoa phẩu thuật.
Về tâm-tánh
chúng ta lại càng dốt hơn nữa. Nhiều khi chúng ta tưởng hiểu rõ nội tâm của mình,
kỳ thật đã lầm nhiều lắm. Vậy muốn rõ biết tâm-tánh một cách rõ ràng, chúng ta
hãy tu học Duy-thức. Như phần trên đã nói. Duy-thức học đã phân tích, chia-chẻ
một cách tường tận, tỉ-mỉ, tâm-lý của chúng ta , liệt kê ra thành nhiều loại;
mỗi loại có tên riêng, hành-tướng, công-năng, phạm-vi hoạt-động khác nhau như
thế nào. Học Duy-thức, chúng ta thấy được phần nội tâm một cách rỏ ràng như
người cầm gương soi, thấy tất cả những gì ở trên mặt. Chúng ta sẽ biết rõ những
tâm-niệm xấu-xa để diệt-trừ (tu tâm), những tánh-tình tốt đẹp để bồi dưỡng
(dưỡng tánh). Do đó, chúng ta sẽ trở thành người hiền lương, đạo-đức.
2.- Chúng ta
thấy được cái chánh-phủ nội tâm của chúng ta: Tâm-lý của mỗi người mới xem qua
thật vô cùng phức-tạp; nhưng nếu suy nghiệm cho kỹ, chúng ta thấy vẫn có một tố
chức gần giống như một liên bang; các Tâm-vương khác như một vị Tổng-thống của
liên bang; các Tâm-vương khác như các vị đứng đầu của tiểu-banh; các tâm-sở
Biến-hành như một vị Bộ-trưỏng; các Tâm-sở Biệt-cảnh như các vị Tỉnh-trưởng,
Quận-trưởng; các Tâm-sở Bất-định như các vị dân-biểu không đảng phái; các
Tâm-sở Thiện như các vị công-thần liêm-khiết hay các vị công-chức tân tâm vì
dân vì nước; các Tâm-sở phiền nảo như những tham quan ô lại, hay cướp dựt lưu
manh v.v… con các chủng-tử (thiện, ác, vô ký) thì như toàn thể dân chúng trong
liên bang.
Với một
liên-bang nội tâm như thế, nếu chúng ta biết sắp đặt điều hòa bộ máy
chính-quyền nội tâm cho vững vàng, thì tất nhiên liên-bang ấy sẽ vững mạnh,
hùng-cường, và văn minh tiến bộ. Trái lại, nếu chúng ta không nắm vững được bộ
máy hành-chính nội-tâm, thì liên-bang ấy sẽ loạn lạc, đói khổ và không sớm thì
muộn, sẽ rơi vào vực thẳm tối tăm.
Duy-thức học
giúp cho chúng ta thấy rõ chánh-phủ nội-tâm của mình, để tự điều hòa cho được
thạnh trị, thái-bình.
3.- Chúng ta
trau giồi được một đức tánh tốt đẹp là tánh ”kiên nhẫn”:
Học Duy-thức,
trước tiên chính là chúng ta học đức tính kiên nhẫn. Thật vậy, người không kiên
nhẫn không thể học Duy thức đến nơi đến chốn được, vì môn học này chia chẻ tâm
lý một cách tỷ mỷ, phiền tóai; mỗi tâm niệm đều cũng nhiều danh từ chuyên
môn,và được nghiên cứu kỹ lưỡng về tánh chất, hành vi, tướng trạng…những người
không chịu khó, tánh tình hời hợt, nóng nảy, không thể nào thành công được trên
đường tu học triều Duy-thức. Cho nên chỉ những người kiên nhẫn mới thành công,
hay ngược lại,muốn thành công thì phải luyện tập đức tính kiên nhẫn. Từ xưa đến
nay, trong đạo hay ngoài đời, những người được thành công vĩ đại đều nhờ đức
tánh kiên nhẫn.
4.- chúng ta
giữ thái độ bình tĩnh tự tại: Như csác đọan trướ đã nêu rõ, mọi sự vật trong vũ
trụ này đều do thức biến, chớ không chắc thật. Do đó, khi gặp điều may mắn,
chúng ta không kiêu hãnh, ngạo mạn, cống cao; khi gặp cảnh đau buồn như tử biệt
sanh ly…chúng ta bớt khổ não, kêu than, giữ được thái độ bình tĩnh và cũng cho
biết được cõi đời là giã tạm, như mây bay, như gió thỏang,nên chúng ta không
say đắm, tham lam, luyến tiếc, và nhờ thế, chúng ta bớt dần những nghiệp giữ,
chóng được giải thóat.
5.- Chúng ta
nắm vững lòng tin:
Học Duy-thức,
chúng ta thấy được giá trị cao siêu của nó, nên lại càng tin tưởng mạnh mẽ vào
tôn giáo của chúng ta, một tôn-giáo không phải dựa trên giáo điều độc đóan, mà
dựa trên thực nghiệm, và lấy ngay nội tâm của con người làm nền tảng cho sự tu
học của mình.
X. Kết Luận.
Chúng tôi đã
trình bày xong những điểm chính yếu của Duy-thức tôn giáo hay Pháp tướng tôn.
tấĩt nhiên, với phạm vi những bài giảng này, chúng tôi không thể đi sâu vào chi
tiết, trình bày một cách rộng rải, đầy đủ hơn. Quý vị nào muốn nghiên cứu sâu
xa về môn học này, xin hãy tim trước tiên ba bộ sách chính tông của Duy-thức
là: Ðại-thừa Bá Phát minh môn luận (Duy-thức nhập môn),Duy-thức Tam Thập Tụng
và Bát Thức Quy Củ tụng; sau đósẽ nghiên cứu thêm những tập sách khác hiện đã
xuất bản rất nhiều ở Việt-Nam .
Tuy thế, sau
khi xem qua nội dung bài này, quý vị có thể quyết định được con đường tu hành
của quý vị rồi. Nếu quý vị thấy đây là một con đường tu hành thích hợp và thiết
thực lợi ích đối với mình thì xin hãy hạ thủ công phu ngay, nghĩa là ngày đem
quan sát kiểm thảo tâm thức của mình. Như quý vị đã biết, trong mỗi chúng ta
đều có sáu đầu đảng giải quyết là sáu món Căn bản phiền não. Sáu đầu đảng này
lại có hai mươi tên bộ hạ nguy hiểm là 20 Tùy phiền não. Chính bọn giặc cướp
này, từ vô thỉ đến nay phá hoại chúng ta vô cùng vô tận, làm cho chúng ta điêu
đứng và trầm luân trong biển khổ sanh tử luân hồi. Nếu ngày nay biết được sự
tàn phá của chúng, quyết tâm diệt trừ, không cho chúng hoành hành,chắc chắn
cuộc đời chúng ta an cư lạc nghiệp (xong cuốn tu tâm).
Hơn nữa, bên
cạnh những bọn giặc cướp ấy, chúng ta còn có những anh hùng nghĩa sĩ, chuyên
làm các việc thiện là 11 món tâm sở thiện. Với những vị hảo hán này, chúng ta
phải luôn luôn ân cần trọng đãi, khuyến khích cổ võ để cho họ càng thêm hăng
hái và mạnh mẽ làm các việc lành (xem quyển Dưỡng Tánh).
Một khi các
tâm niệm xấu xa hoàn toàn tiêu diệt, các đức hạnh tốt hoàn toàn đầy đủ, chúng
ta sẽ thành Phật quả.
Cầu mong quý
vị thành công.
Trích trong PHẬT HỌC PHỔ
THÔNG của Hòa thượng Thích Thiện Hoa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét