Ðộ thứ sáu: Trí Huệ Ba La Mật
A. Mở Ðề
Trong đạo Phật, hai tiếng vô
minh được nhắc nhở đến luôn, vì chính vô minh là nguồn gốc, là đầu dây mối nhợ
của đau khổ của sanh tử luân hồi. Phật thường dạy: “Cái khổ của lạcđà, của lừa
ngựa chở nặng mãn kiếp, cái khổ trôi lăn trong tam giới chưa gọi là khổ. Ngu si
không trí huệ tin tưởng sai lạc, không biết hướng đi, cái ấy mới thật là khổ”.
Ngài còn dạy một cách mạnh
mẽ, dứt khoát hơn: “Si là gốc của tội lỗi, Trí huệ là gốc của muôn hạnh lành”.
Chúng ta là Phật tử chúng ta không muốn gây tội lỗi để chịu quả khổ đau, chúng
ta chỉ mong làm được các hạnh lành để hưởng phước quả và được giải thoát. Vậy
tất nhiên chúng ta phải tu huệ, thì Trí huệ Ba la mật.
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa
Trí huệ là gì? “Trí” phiên
âm chữ phạn là Phã na; “Huệ” phiên âm chữ Phạn là Bát nhã. “Trí” có nghĩa là
quyết đoán; “Huệ” có nghĩa là giản trạch, Tự điển Phật học Trung Hoa định nghĩa
như sau: “Trí là biết Tục đế và Huệ là thông hiểu Chân đế”.
Cũng có thể nói: Trí là thể
tách sáng suốt trong sạch, Huệ là cái Diệu dụng xét soi tự tại. Trí huệ Ba la
mật là thể tách sáng suốt có khả năng soi sáng sự vật một cách thấu đáo tinh
tường đến nơi đến chốn, không thể sai lầm được.
II. Các Loại Trí Huệ
Trí huệ như định nghĩa trên
là trí huệ của đạo Phật, chứ không phải trí huệ phổ thông, thường dùng trong
các sự học hỏi hiểu biết, suy luận hằng ngày trong đời.
Theo triết học Phật Giáo,
khả năng nhận thức có hai loại: Hiện lượng và tỷ lượng.
1. Hiện lượng: Là sự nhận biết
trực tiếp không cần qua trung gian suy luận. Hiện lượng lại chia làm hai:
-
Chân hiện lượng, là nhận thức trực tiếp mà đúng.
-
Tợ hiện lượng, Là nhận thức trực tiếp mà sai
2. Tỷ lượng: Là sự nhận biết
qua trung gian suy luận. Tỷ lượng cũng có hai thứ:
-
Chân tỷ lượng, là lối hiểu biết bằng suy luận đúng
đắn.
-
Tợ tỷ lượng, là lối hiểu biết mà suy luận mà sai
lầm.
Hiện lượng của địa vị phàm
phu rất kém cỏi và phần nhiều là tợ hiện lượng. Tỷ lượng của địa vị phàm phu
lại còn kém cỏi hơn nữa và phần nhiều là tợ tỷ lượng. Ðứng về phương diện tính
chất, Ðạo Phật chia trí huệ ra làm hai loại lớn là ” Căn bản trí” và ” Hậu đắc
trí”.
1. Căn bản trí: Căn bản trí, là
giác tính minh diệu mà mỗi chúng sinh vốn đã có sẵn, nhưng vì bị phiền não che
lấp, nên chưa phát chiếu ra được.Có thể so sánh căn bản trí như là một chất kim
khí quí báu (vàng, bạc) đang ở trong trạng tahí khoáng chất, nằm lần lộn với đá
(phiền não vô minh)
2. Hậu đắc trí: Hậu đắc trí, là
trí huệ có được nhờ công phu tu tập như trì giới, thiền định v.v…Có thể so sánh
Hậu đắc trí như chất kim khí (vàng, bạc) được lọc từ khoáng chất ra và không
còn lẫn lộn với đất đá, bụi bặm nữa (phiền não, vô minh).
Theo Duy thức học, sau khi
đạt đến địa vị Giác ngộ, nghĩa là có được “Hậu đắc trí”, thì tám thức chuyển
thành bốn trí:
-
Thức thứ tám, A lại da có tác dụng là chấp trí sanh
mạng và chủng tử, được đạt đến địa vị vô lậu và biến thành “Ðại viên cảnh trí”
(trí sáng như bức gương lớn và tròn đầy, tượng trưng cho biển cả chơn như).
-
Thức thứ bảy, Mtạ na có tác dụng là chấp ngã, biến
thành “bình đẳng tánh trí” (trí có năg lực nhận thức cách bình đẳng, vô ngã của
vạn pháp).
-
Thức thứ sáu, Ý thức có tác dụng là phân biệt, biến
thành “Diệu quan sát trí” (trí có năng lực quan sát thâm diệu).
-
Năm thứ cuối (nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt
thức, thân thức) biến thành “Thành sở tác trí” (trí có năng lực nhận thức cùng
khắp và thần diệu)
III. Làm Thế Nào Ðể Có được
trí Huệ?
Muốn có được trí huệ, đức
Phật chế ra nhiều pháp tu. Trong số nhiều pháp tu ấy thì “Văn, Tư, Tu” và
“Giới, Ðịnh, Huệ” là những pháp thường được nhắc nhở và thực hành nhiều nhất.
Văn, Tư, Tu:
Văn, Tư, Tu là ba pháp tu để
có được trí huệ:
-
Văn huệ: là huệ do tia nghe âm
thanh, mắt thấy âm tự của Phật, hay qua các kinh điển mà hiểu được nghĩa lý.
-
Tư huệ: là huệ do trí suy nghĩ, tìm tòi, rõ được
nghĩa lý, hiểu được sự thật.
-
Tu huệ: là huệ do tu hành thể nghiệm và thể nhập
chân lý, mà giác ngộ, chứng được sự thật.
Văn, tư, tu rất tương quan
mật thiết với nhau, hành giả cần phải chuyên tu cả ba thứ, không thể bỏ qua một
thứ nào mà thành tựu được. Hãy nghe Phật dạy:
” Văn huệ, tư huệ, tu huệ, ba môn khuyết một không được. Nếu ai nghe mà
không suy nghĩ, thì như làm ruộng mà không gieo mạ; nếu suy nghĩ mà không tu,
thì như làm ruộng mà không tát nước, bừa cỏ, rốt cuộc không có kết quả. Ba huệ
được đầy đủ thì chứng quả Tam thừa?” (Sa Di thập giới).
-
Giới: là lời răn dạy của Phật )xem lại bài Trì
giới Ba la mật).
-
Ðịnh: là thiền định, giữ cho tâm ý không loạn
động, để suy nghiệm đến những vấn đề căn bản của Ðạo (xem lại bài Thiền Ðịnh Ba
la mật).
-
Huệ: là sự phát chiếu của Trí, sau khi đã tẩy
sạch phiền não và vô minh.
Giới, Ðịnh, Huệ tương quan
mật thiết với nhau: Do trì giới mà thân tâm không loạn động. Do thân tâm không
loạn động mà tâm trí được Ðịnh. Tâm trí khi đã định thì Trí huệ phát chiếu.
Ngược lại, Trí huệ phát
chiếu thì tâm dễ Ðịnh, Tâm đã Ðịnh thì Trì giới không khó khăn.
Tóm lại: Giới, định, huệ,
đều tương duyên tương quan mật thiết với nhau, một cái tăng thì hai cái kia
cũng tăng.
IV. Công Năng Của Trí Huệ
Như chúng ta đã thấy trong
phần chia loại, trí huệ khi đã đạt đến địa vị Giác ngộ (tám thức chuyển thành
bốn trí) thì công năng, diệu dụng của nó rộng lớn vô cùng, không thể nói hết.
Tuy thế, để có một quan niệm tương đối rõ ràng, chúng ta có thể nêu lên ba công
năng chính của trí huệ như sau:
1. Dứt trừ phiền não: Phiền não là do
mê lầm phát sinh. Khi trí huệ đã có thì mê lầm phải mất, như khi ánh sáng phát
ra thì bóng tối tất phải tan biến. Mê lầm đã mất thì phiền não tất không còn
phát sinh nữa.
2. Chiếu sáng sự vật: Sự vật bị vô
minh che khuất, như màn sương sớm che phủ cảnh vật, nay trí huệ phát chiếu vào
sự vật, chẳng khác gì khi ánh sáng mặt trời lên, thì màn sương ất phải tan
biến, lúc bấy giờ thực tướng thực tánh của sự vật được lộ bày như thật.
3. Thể nhập chân lý: Khi bị vô minh
phủ lấp, ngăn che thì người ta với người, ta với vật tưởng như riêng biệt, sai
khác. Nay nhờ trí huệ soi sáng, thấy rõ được tâm cảnh đều chơn không, nên thể
nhập được chân lý, giác ngộ hoàn toàn.
C. Kết Luận
Gíá trị và công năng của trí
huệ lớn lao không thể nói hết. Nó là cứu cánh của người Phật tử. Cứu cánh ấy,
chúng ta phải cố đạt cho được.
Trước khi nhập Niết Bàn, đức
Phật cũng đã thiết tha khuyên các Ðệ tử phải trao dồi trí huệ như sau:
” Trí huệ là chiếc thuyền
kiên cố chở khỏi biển già, đau, chết; là ngọn đèn lớn chói sáng vô minh hắc ám,
là liều thuốc hay chữa hết thảy bệnh tật, là chiếc búa sắt chặt gãy cây phiền
não. Vậy các người phải lấy sự nghe, sự suy nghĩ, sự tu tập mà tự tăng ích cho
trí huệ mình”. (Kinh Di Giáo).
Những lời nhắn nhủ thống
thiết của đức Bổn sư, chúng ta không thể không ghi nhớ và thực hành được.Vả
chăng, trong sáu độ Ba la mật mà chúng ta đã học trong ba bài kế tiếp này, mục
đích cũng chỉ để dẫn đến độ thứ sáu là trí huệ, cái mứ c độ cuối cùng của đạo
Giác ngộ và giải thoát.
Cầu mong tất cả quý vị Phật
tử có được trí huệ để tự độ và tự tha đến bên kia bờ giải thoát.
Tổng Kết Về Lục Ba La Mật
Ðạo Phật là đạo từ bi, mà
cũng là đạo giác ngộ. Từ bi thuộc về phước, giác ngộ thuộc về huệ. Phướv và Huệ
là hai cánh làm cho con chim đại bàng là hành giả làm bay thẳng đến bờ giải
thoát. Do đó, trong kinh thường nói: “Phước, Huệ song tu mới thành ngôi Chánh
giác”. Trong sáu pháp Ba la mật, bố thí và nhẫn nhục thuộc về tu phước; thiền
định và trí huệ thuộc về tu huệ; còn trì giới và tinh tấn là hai chất liệu có
công dụng kiểm soát và đốc thúc cho việc tu phước và huệ được thành tự hoàn
toàn.
Nếu chúng ta đem so sánh một
cách mộc mạc và đơn giản sáu pháp Ba la mật với chiếc thuyền Bát nhã đưa người
từ bờ mê đến bến giác, thì: Từ bi là thức ăn, nhẫn nhục là nước uống, tinh tấn
là cánh buồm và chèo, trì giới là bánh lái, thiền định là la bàn và trí huệ là
đèn đuốc. Sáu thứ ấy đều cần thiết cho người thủy thủ sẽ gặp khó khăn trong
công cuộc hành trình vạn dặm của mình.
Ðứng về một khía cạnh khác
để nhận xét giá trị của lục độ, chúng ta sẽ thấy như thế này: Bố thí và nhẫn
nhục thuộc về bi, thiền định và trí huệ thuộc về Trí, còn trì giới và tinh tấn
thuộc về Dũng. Một Phật tử hoàn toàn phải có đủ ba phương tiện Bi, Trí, Dũng
mới mong điđến bờ giác ngộ một cách thông suốt và nhanh chóng.
Vậy trông quí vị Phật tử tại
gia cũng như xuất gia, trong khi học và hành sáu pháp Ba la mật, đừng nên xem
thường một pháp nào. Có như thế mới đủ phương tiện nà năng lực để tự đọ và độ
tha, đến nơi cùng tột và đúng với ý nghĩa Ba la mật.
Trích trong PHẬT HỌC PHỔ
THÔNG của Hòa thượng Thích Thiện Hoa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét