Ðộ thứ tư: Nhẫn
Nhục Ba La mật
A. Mở Ðề
Kinh Hoa Nghiêm có nói:
“Nhất niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai” (một niệm lòng sân hận nổi
lên, thì trăm ngàn muôn tức cửa nghiệp chướng đều mở ra). Thật vậy, lắm người
vì một phút không dằn được cơn tức giận, mà đánh đập vợ con đến tàn tật, đốt
phá của cải quý báu của ông cha để lại, rồi phải ân hận suốt đời.
Lắm lúc, vì
không làm chủ được tánh nóng nẩy mà tình cốt nhục phải chia ly, nghĩa vợ chồng
phải phân rẽ, bạn chí thân trở thành kẻ oán thù…
Người học đạo cũng vậy, nếu
gặp nghịch cảnh không nhẫn nhịn được, thối chí nản lòng, đôi khi phải bị đọa
đày. Như ông Ðộc giác tiên nhân, vì một niệm sân hận không nhẫn được, mà phải
bị mất năm pháp thần thông. Ông Uất đầu lam phất, vì sân hận mà phải đọa làm
loài phi ly trùng (chồn bay). Nên sách có nói: “Nhất sân chi hỏa năng thiêu vạn
khoảnh công đức chi sơn” (Nghĩa là một đóm lửa sân, có thể đốt tan muôn mẫu
rừng công đức).
Vậy muốn trừ sân hận một
cách có hiệu quả, phải tu pháp Nhẫn nhục Ba la mật.
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa
“Nhẫn” là nhịn, chịu đựng
những cảnh trái mắt nghịch lòng. “Nhục” là điều sỉ nhục, điều xấu hổ, làm tổn
thương đến lòng tự ái của mình.
Nhẫn nhục Ba la mật là nhẫn
nhục đến chỗ cùng tột không còn ai có thể nhẫn nhụ hơn thế nữa.
II. Thành Phần Của Nhẫn Nhục
Ba La mật
1. Thân nhẫn. Ðối với nghịch cảnh
như nắng mưa, nóng lạnh, đói khát, đau ốm, hoặc bị người đánh đập, hành hạ, làm
bức não nơi thân, mình cũng cam chịu, không phàn nàn hay chống cự lại. Ðay là
chịu đựng về thể xác.
2. Khấu nhẫn. Thân đã nhẫn
chịu không chống lại người và miệng cũng không thốt ra những lời nguyền rủa độc
ác, trước những lời ma nhục chua cay, mắng nhiếc tồi tệ hay đánh dập tàn nhẫn.
3. Ý nhẫn. Nhẫn nhục cả
trong tâm, không căm hờn, không oán giận, không nổi lên ý phản đối, những tư
tưởng hắc ám để trả thù.
Trong ba thứ nhẫn này, “ý
nhẫn” là khó nhất và quan trọng nhất. Có nhiều khi thân có thể chịu đựng được
cụac hình, nhưng miệng vẫn lẩm bẩm nguyền rủa. Thêm một lần nữa, miệng tuy
không thốt ra những lời phản đối, nguyền rủa, nhưng ý vẫn ngấm ngầm phản đối,
và tức giận đốt cháy tim gan.
Ðến khi “tâm ý” cũng không
ngấm ngầm nổi dậy phản đối, sự tức giận lắng xuống tận đáy lòng; đứng trước mọi
nghịch cảnh, lòng vẫn phẳng lặng như không, thì nhẫn nhục mới thật là hoàn
toàn.
Nếu bên trong vẫn chưa nhẫn
được, thì thế nào giận giữ cũng có ngày xuất hiện ra trong lời nói và hành
động.
III. Phải Nhẫn Nhục Như Thế
Nào
Mới Ðúng Chánh Pháp?
Mới Ðúng Chánh Pháp?
1. Nhẫn nhục có chấp tướng. Nhẫn nhục vì sợ
quyền thế; Nhẫn nhục vì đang nằm trong hoàn cảnh bất lợi chưa thể trả thù được;
Nhẫn nhục để mong cầu được người khen, hay được chức trọng, quyền cao; Nhẫn
nhục vì khinh bỉ đối thủ, hay tự cho mình cao hơn người, không thèm chấp nê,
phản đối. Nhẫn nhục như thế là Nhẫn nhục chấp tướng vì còn do dục vọng tham,
sân, si, mạn thúc đẩy, chưa phải là Nhẫn nhục Ba la mật.
2. Nhẫn nhục không chấp
tướng. Người tu hạnh Nhẫn nhục ba la mật, trước hết phải do ý muốn diệt trừ
lòng sân hận, kiêu mạn, tất đố, tự ái, tham lam…Nếu có người chửi mắng, mình
phải bình tĩnh tự nghĩ rằng: “Ta có làm điều gì sái quấy không? Nếu có, thì ta
bị sỉ nhục là phải, ta nên cảm ơn người. Nếu ta trong trắng, thì những lời sỉ
nhục ấy có dính líu gì đến ta đâu, mà phải khổ tâm nghĩ đến?”
Hơn nữa, người tu Nhẫn nhục
còn nhắm much đích trao dồi lòng từ bi và hỷ xả, ta Nhẫn nhục không oán giận, không
trả thù là vì ta thương người, ta muốn xem mọi người như thân thuộc anh em. ta
Nhẫn nhục vì ta không muốn cuộc đời là một đấu trường, một bãi chiến, một lò
lửa của sân hận, đốt thiêu tất cả.
Chúng ta hãy tập cho được
Nhẫn nhục như ông Purna trong câu chuyện sau đây: “Khi Phật còn tại thế, một Ðệ
tử của Phật, ông Purna xin Phật đi qua truyền đạo tại xứ Chronaparanta, là một
xứ có tiếng rất hung ác. Phật hỏi ông Purna:
Ông đã phát nguyện đem đạo
pháp của ta đến truyền bá cho dân xứ ấy, nhưng nếu ho không nghe, lại còn dùng
lời hung ác mắng chửi ông, thì ông nghĩ sao?
Bạch Thế tôn, con nghĩa: Họ
là người tốt, vì họ không dùng cây đánh đập con, hay lấy đá ném con.
Phật hỏi tiếp:
Nếu họ lấy cây đánh ông, hay
dùng đá ném ông, thì ông nghĩ sao?
Bạch Thế tôn, con nghĩ: Họ
vẫn còn lòng nhân, vì họ không chém giết hay đập con đến chết.
Phật lại hỏi:
Nếu họ chém giết hoặc đánh
chết ông thì ông nghĩ sao?
Bạch Thế tôn, con nghĩ: Họ
là ân nhân của con, vì nhờ họ mà con thoát được thân đau khổ, bỏ được bọc thúi
tha, từ biệt đời sống khốn nạn này.
Ðức Phật khen:
Hay lắm ! Ông nhẫn nhục được
như vậy thì mới có thể qua xứ ấy truyền đạo được !
Ông Purna qua xứ
Chronaparanta truyền đạo không bao lâu, dân chúng xứ ấy đeù qui đầu Phật pháp
cả.
Nhẫn nhục như ông Purna mới
thật đúng là Nhẫn nhục Ba la mật, nghĩa là nhẫn từ ngoài thân đến trong tâm,
nhẫn mà không thấy mình nhẫn và cảnh nhục để nhẫn.
IV. Công Ðức Của Pháp Nhẫn
Nhục Ba La mật
Như đoạn mở đầu đã nói, lửa
sân hận có thể đốt thiêu tất cả những gì quí báu, nà loài người đã xây dựng
được trên thế giới này. Lửa sân hận chỉ có thể bị dập tắt bằng nước Nhẫn nhục
Ba la mật.
Không Nhẫn nhục thì gia đình
ly tán, bạn hữu chia lìa, tó thầy đoạn tuyệt, đồng bào xung đột, thế giới chiến
tranh.
Có Nhẫn nhục thì gia đình
sum họp, bạn hữu tương thân, tớ thầy trung tín, đồng bào đoàn kết, thế giới hòa
bình. Riêng đối với bản thân, không Nhẫn nhục thì lửa giận thiêu đốt lòng mình
và dục vọng hoàng hành, sự nghiệp tiêu tan, mọi người xa lánh, đạo quả khó
tròn.
Có Nhẫn nhục thì lòng từ chan
chứa, thanh tịnh tràn lan, sự nghiệp dâng cao, người người quí trọng, đạo quả
viên thành.
Vì nhận thấy công đức lớn
lao và quí báu của Nhẫn nhục cho nên cổ nhân đã có nhắn nhủ với người đời một
cách mạnh mẽ như sau:
-
Nhẫn nhẫn nhẫn, trái chủ oan gia tùng thử tận
-
Nhiêu nhiêu nhiêu, thiên tai vạn họa nhất tề tiêu
-
Mặc mặc mặc, vô hạn thần tiên tùng thử đắc
-
Hưu hưu hưu, cái thể công danh bất tự do
Nghĩa là:
-
Nhẫn nhẫn nhẫn (thân nhẫn, miệng nhẫn, tâm nhẫn) thì
những điều trái chủ oan gia từ đây dứt hết.
-
Nhịn nhịn nhịn (thân nín, miệng nín, tâm nín) thì
cảnh giới thần tiên vô hạn cũng do đây mà được.
-
Thôi thôi thôi (thân, miệng, tâm đều thôi) thì những
công danh cái thế không còn tự do.
C. Kết Luận:
Chúng ta không còn nghi ngờ
gì nữa giá trị và công đức lớn lao, quý báu của nhẫn nhục. Giờ đây chúng ta chỉ
còn quyết tâm thực hành ngay pháp môn này. Nhất là đối với Phật tử nào đã nhiều
lần bị lửa giận tàn phá tâm can, gia đình và sự nghiệp của mình, hãy mau mau tu
tập pháp nhẫn nhục này. Ðừng để phải ăn năn, hối tiếc và khổ đau thêm một lần
nữa vì lửa nóng giận.
Kẻ tu hành lại càng gấp rút
thực hành pháp môn này. Không có gì taio hại cho sự nghiệp tu hành của mình mà
làm cho người chung quanh khinh lờn, xa lánh bằng sự nóng giận, cọc cằn nơi một
kẻ xuất gia cầu đạo. Dù những người ấy có tinh thông kinh điển bao nhiêu, tu
hành bao nhiêu ,mà khi thấy nét mặt họ đỏ gay, giọng nói họ quát tháo, cử chỉ
họ mất tự chủ, thì người chung quanh không còn tin tưởng ở sự tu hành của họ
nữa, vì sự nóng giận tố cáo họ một cách hùng hồn.
Chúng tôi tưởng không cần
phải nói nhiều hơn nữa về những tai hại của giần dữ; vì chắc rằng những ai đã
có lần giận dữ cũng đã thấy rõ như thế rồi.
Ðể kết luận bài này, chúng
tôi chân thành cầu mong cho mọi người cùng chúng tôi, đều thật hành pháp môn
nhẫn nhục này một cách co hiệu quả, để cõi đời thêm phần an lạc.
Trích trong PHẬT HỌC PHỔ
THÔNG của Hòa thượng Thích Thiện Hoa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét