A. Mở Ðề
Người đời, vì không hiểu sự
vật trong vũ trụ này từ đâu mà có, cho nên sanh ra nhiều quan niệm sai lầm. Có
người nghĩ rằng vũ trụ do tự nhiên sanh. Có người lại nghĩ vũ trụ do một vị
thần toàn trí, toàn năng tạo ra v.v…
Theo Ðạo Phật thì vũ trụ là
vô thỉ, nghĩa là không có điểm khởi đầu, và mọi sự mọi vật trong vũ trụ không
thể đứng riêng một mình mà có được; trái lại, phải nương nhờ nhau mà thành. Nói
một cách khác, từ vật lớn cho đến vật nhỏ, từ vật hữu hình cho đến vô hình,
đều không ngoài nhân duyên mà có. Vì thế, trong kinh Phật thường nói: “Chư pháp
tùng duyên”.
Sự hiện hữu của loài hữu
hình, hay nói riêng của loài người, cũng không ngoài công lệ ấy được.Muốn hiểu
rõ một cách tường tận cái guồng máy của sự sanh tử luân hồi của kiếp trong bể
khổ trần gian, chúng ta cần phải học lý “Thập nhị nhân duyên”. Sau khi hiểu rõ
lý thập nhị nhân duyên, chúng ta lại còn phải tìm hiêu phương pháp để dứt trừ
cái vòng lẩn quẩn sanh tử luân hồi nữa.
Muốn hiểu và dứt trừ cái
vòng sanh tử luân hồi, chúng ta phải học và thực hành pháp quán nhân duyên, mà
chúng tôi xin trình bày trong bài giảng này.
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa
Sao gọi là “Nhân duyên”?
Nhân là nguyên nhân, chỉ cho những sự vật chính đó là nhân, trực tiếp sanh ra
một vật khác, như hạt lúa lam nhân sanh ra cây lúa. Duyên là trợ duyên, chỉ cho
những vật gì có tánh cách trợ gíup trực tiếp hay gián tiếp cho vật khác được
thành. Như phân, nước, ánh sáng, nhân công…là trợ duyên giúp cho hạt lúa được
thành cây lúa. Vậy nhân duyên là chỉ cho các vật làm nhân cho nó mà cũng vừa là
trợ duyên cho tất cả vật chung quanh nó.
Chữ “Nhân duyên” lại có
nghĩa thứ hai: Các vật đều là “nhân”, các “nhân” đó “duyên” với nhau mà thành
ra các vật khác. Như vôi, gạch, ngói, gỗ v.v…là nhân, các nhân này duyên nhau
(nương giúp) mà thành ra cái nhà. Vì các pháp trùng điệp nhiều lớp làm duyên
cho nhau, mà thành ra vật thế này hay thế khác, nên trong kinh chép: “Chư pháp
trùng trùng duyên khởi”.
II. Thành Phần Của Nhân
Duyên
Ðoạn trên đã nói: “Các pháp
do nhân duyên hòa hợp sanh”. Vậy những nhân duyên gì sanh ra loài hữu tình”.
Vậy những nhân duyên sau đây:
1. Vô minh, 2. Hành, 3. Thức, 4. Danh sắc, 5. Lục nhập, 6. Xúc,
7. thọ, 8. Ái, 9. thủ, 10. Hữu, 11. Sanh, 12. Lão tử.
1. Vô minh có nhiều nghĩa và
nhiều loại:
a) Theo Ðại Thừa giải thích:
“Không tỏ ngộ chân tâm gọi là vô minh” (Bất giác đệ nhất nghĩa đế, vị chi vô
minh).
b) Thông cả Ðại Thừa và Tiểu
Thừa giải thích: “Hiểu biết các pháp không đúng như thật (hiểu sai lầm), nên
gọi là vô minh” (Bất như thật tri chư đế lý, vị chi vô minh); như vô ngã mà
chấp thật ngã, vô pháp mà chấp thật pháp v.v…
c) Ngoài ra, còn những nghĩa
thông thường như: vô minh là không sáng, tối tăm, mờ ám, si mê v.v…
Vô minh, lại có khi để chỉ
các phiền não như tham, sân, si. Xưa có người đến chùa hỏi:
Thế nào là vô minh?
Tổ sư trả lời:
Quê mùa dốt nát đến thế,
cũng đến chùa hỏi đạo lý !
Ông khách nổi giận, mặt mày
đỏ bừng…Tổ sư nói tiếp:
Vô minh là đó (chỉ cái sân),
đó là vô minh.
Vô minh có khi chỉ riêng cho
Si tâm sở. Như nói “độc hành vô minh” hay “tương ưng vô minh” là đều chỉ riêng
cho “si tâm sở”: Khi nó khởi riêng một mình, hoặc chung cũng với phiền não,
tham, sân v.v…
Vô minh lại phân ra hai
loại: căn bản vô minh và chi mạt vô minh. Như trong mười hai nhân duyên, cái
“vô minh” đầu là căn bản, vì nó là gốc sanh ra các vô minh sau; còn “ái, thủ,
hữu” là chi mạt vô minh. Trong tứ hoặc, thì kiến hoặc, tư hoặc, trần sa hoặc là
chi mạt vô minh; còn vô minh hoặc là căn bản vô minh. Trong ngũ trụ địa, thì
kiến nhất xứ trụ địa, dục ái trụ địa , sắc ái trụ địa và hữu ái trụ địa là chi
mạt vô minh, còn vô minh trụ địa là căn bản vô minh.
Nói chung lạu, tất cả phiền
não, hoặc thô, hoặc tế của Ðại Thừa hay Tiểu Thừa, có tánh cách làm cho chân
tâm bị ẩn, gương trí tuệ lu mờ thì gọi là vô minh.
2. Hành là hành động , tạo
tác.
Do vô minh phiền não nổi
lên, làm cho thân, khẩu, ý, tạo tác ra các nghiệp lành hay dữ nên gọi là
“hành”.
3. Thức là thần thức, chỉ
cho phần tinh thần.
Do thân, khẩu, ý, ba nghiệp
tạo tác những nghiệp lành hay dữ nên khi chết rồi, các nghiệp dẫn dắt thần thức
đi lãnh thọ quả báo (thân) khổ hay vui ở đời sau.
4. Danh sắc là thân thể.
Trong thân thể người có hai
phần:
a) Phần tinh thần (tâm) chỉ
có tên kêu gọi, chứ không có hình sắc nên gọi là “danh”.
b) Phần thể chất cí hình
sắc, nên gọi là “sắc”.
5. Lúc nhập, gọi nôm na là
sáu chỗ vào.
Khi đã có thân thể rồi, cố
nhiên phải có sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) là chỗ của sáu trần
(sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp) phản ảnh vào, nên gọi là “lục nhập”.
6. Xúc là tiếp xúc.
Trong sáu căn, ngoài sáu
trần thường gặp gỡ tiếp xúc với nhau, như mắt tiếp xúc với sắc, tai tiếp xúc
với tiếng, mũi tiếp xúc với mùi, lưỡi tiếp xúc với vị, thân tiếp xúc với ấm
lạnh, trơn nhám, ý tiếp xúc với pháp trần.
7. Thọ là lãnh thọ.
Khi sáu căn tiếp xúc với sáu
trần, rồi lãnh thọ những cảnh vui hay buồn, sướng hay khổ, hay cảnh binh
thường.
8. Ái là ưa muốn.
Khi lành thọ cảnh vui thì
sinh lòng tham, muốn làm sao cho được, khi gặp cảnh khổ thì sanh tâm sân hận,
buồn rầu, muốn xa lìa, gặp cảnh binh thường thời si mê. Ðây là cái động cơ thúc
đẩy thân, khẩu, ý, taoc tác các nghiệp.
9. Thủ là giữ lấy, tìm cầu;
nói rộng ra là các hành động tạo tác.
Do gặp cảnh thuận thì tham
cầu, gặp cảnh nghịch lại sân, si muốn xa lìa; mục đích là muốn tìm phương này
kế nọ để bảo thủ cho được bản ngã của mình. Do đó mà tạo ra các nghiệp sanh tử.
10. Hữu là có.
Vì đời này đã có nhân lành
hay dữ do mình tạo ra, thì đời sau quyết định phải “có” quả khổ hay vui mà mình
phải thọ nhận.
11. Sanh. Là sanh ra.
Do “ái, thủ, hữu” làm nhân hiện tại tạo ra các
nghiệp, cho nên qia đời sau, phải sanh ra đời để thọ quả báo.
12. Lão, tử. Là già, chết.
Ðã có sanh ra, tất nhiên
phải chịu các khổ già và chết v.v…
Mười hai nhân duyên này liên
quan mật thiết với nhau, vừa làm quả cho nhân trước, vừa làm nhân cho quả sau,
nối tiếp không dứt trong thời gian và làm cho chúng sinh phải mãi mãi xoay tròn
trong vòng sanh tử.
III. Phương Pháp Quán
Phương pháp quán mười hai
nhân duyên có thể chia làm hai phần là: quán Lưu chuyển và quán Hoàn diệt.
1. Quán lưu chuyển. Là quán sát
trạng thái sanh khởi và luân lưu của mười hai nhân duyên. Sự quán sát này có ba
loại:
a) Quán sát, trạng thái sanh
khởi của mười hai nhân duyên trong quá khứ xa xôi, từ vô thỉ. Từ vô thỉ, vì
vô minh vọng động, làm cho bản tâm thanh tịnh phản uẩn khuất, như mây áng nên
trăng mờ (vô minh), do đó, các vọng động từ từ sanh khởi (hành), thành ra có
tâm (thức) và cảnh, đủ cả thế giới và chúng sinh (danh sắc); trong thân chúng
sinh có sáu căn là chỗ của sáu trần thường pảhn ảnh vào (lục nhập), rồi căn,
trần thường tiếp xúc (xúc) nhau sanh ra cảm thọ (thọ), nhân thọ sanh ra ưa
(ái), vì ưa mới giữ (thủ); do đó mà có (hữu) sanh (sanh) và già, chêý (lão,
tử).
Ðây là nói về trạng thái của
mười hai nhân duyên từ vô thỉ, do vô minh vọng động, tạo tác mà có thế giới và
chúng sinh, rồi cứ như thế, tiếp tục sanh khởi cho đến ngày nay, và mãi mãi về
sau v.v…
b) Quán sát trạng thái lưu
chuyển của mười hai nhân duyên trong ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Ðây là quán sát
sự xoay vần của mười hai nhân duyên trong thời gian từ quá khứ đến hiện tại, từ
hiện tại đến vị lai. Mười hai nhân duyên cũng như sợi dây chuyền có mười hai
vòng, vòng này móc vào vòng kia, vòng kia móc vào vòng nọ, nối tiếp nhau không
có mối manh, và liên quan cả ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Nhưng trong quá
khứ vô minh và hành (căn bản vô minh) làm nhân, sinh ra quả hiện tại (thân đời
này) là “thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ”; quả hiện tại (thân đời này) trở
lại tạo nhân (trong hiện tại) là “ái, thủ, hữu” (chi mạt vô minh); nhân hiện
tại lại sẽ thành quả vị lai(thân đời sau) là “sanh, lão, tử). Nói tóm lại, do
mê hoặc (vô minh) nên tạo nghiệp (hành), vì tạo nghiệp nên chịu quả khổ, nhân
chịu quả khổ, rồi lại mê hoặc tạo nghiệp v.v…nhân sanh quả, quả lại sanh nhân,
nối tiếp trong ba đời, quanh quẩn trong sáu đường sanh tử luân hồi, như cái
bánh xe lăn tròn trên sợi dây. Chỉ có khác là bánh xe thật thì chỉ có một cái
và biến đổi rất chậm chạp; còn bánh xe mười hai nhân duyên thì vừa chạy tới mà
vừa biến đổi, luôn luôn hoại và thành, thành và hoại…liên tiếp trong ba đời;
quá khứ, hiện tại và tương lai.
c) Quán sát sự sanh khởi và
lưu chuyển của mười hai nhân duyên trong một niệm của hiện tại. Nếu lấy một
khoảng thời gian ngắn trong hiện tại để quán sát, hành giả cũng có thể thấy
được sự sanh khởi và lưu chuyển của mười hai nhân duyên, chứ không cần phải
quán sát ba đời. Nhưnh khi đối cảnh, không rõ các pháp đều là lưu chuyển (vô
minh) mà khởi vọng niệm (hành) phân biệt (thức) các cảnh vật (sắc); rồi trần
cảnh lại phản ảnh vào căn (lục nhập), căn lại tiếp xúc (xúc) với trần, sanh ra
lãnh thọ (thọ), nhân thọ sanh ra ưa muốn (ái), tím cầu (thủ), do đó tạo ra các
nghiệp (hữu) rồi theo nghiệp thọ quả báo (sanh, lão, tử).
Phân tách ba pháp quán trên,
hành giả sẽ rút ra những nhận xét sau đây:
Trong mười hai nhân duyên,
có hai nhóm làm nhơn và hai nhóm làm quả: Một nhóm nhân quá khứ (gồm có vô minh
và hành) và một nhóm nhân hiện tại (gồm có sanh, lão, hữu).
Về phía quả, thì có một nhóm
quả hiện tại (gồm có thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ) và một nhóm quả vị lai
(gồm có sanh, lão tử).
“Vô minh, hành” là căn bản
vô minh, “ái, thủ, hữu” là chi mạt vô minh. Có thể nói “vô minh, hành” là cái
biệt hiệu của “ái, thủ, hữu”, còn “thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ” là cái
dị danh của “sanh, lão, tử”. Nói như thế là vì, nếu ta đổi qua tráo lại, sẽ
thấy rõ: trong “ái, thủ, hữu”, có “vô minh và hành”, còn trong “sanh, lão, tử”
có “thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ”.
Vô minh thuộc về “hoặc”;
hành thuộc về “nghiệp”; thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, thuộc về “khổ”; ái
thuộc về “hoặc”; thủ, hữu thuộc về “nghiệp”; sanh, lão, tử thuộc về “khổ”. HOẶC
Khổ Nghiệp
Xem bản đồ: 12 nhơn duyên liên quan 3 đời nhơn quả
1. NHƠN (quá khứ)
1. Vô minh (hoặc)
2. Hành (nghiệp
Căn bản vô minh (có ái thủ,
hữu)
2. QUẢ (hiện tại)
1. Thức
2. Danh sắc
3. Lục nhập
4. Xúc
5. Thọ
(khổ) Thân hiện tại
3. NHƠN (quá khứ)
1. Ái (hoặc)
2. Thủ (nghiệp)
3. Hữu
Chi mạt vô minh (có vô minh,
hành)
2. QUẢ (vị lai)
1. Sanh
2. Lão, tử (khổ)
Thân vị lai
2. Quán hoàn diệt.
Là quán sát sự tiêu diệt của
mười hai nhân duyên. Có hai cách quán:
a) Diệt vô minh gốc rễ (căn
bản vô minh). Trong phần quán sát trên, hành giả đã thấy rõ: do vô minh mà có hành,
do hành mà có thức v.v…Vậy thì bây giờ, nếu ta diệt vô minh, thì hành sẽ bị
diệt, hành bị diệt thì thức cũng không có v.v…Hay nói một cách khác: do “mê
hoặc” nên tạo “nghiệp”, do tạo nghiệp nên mới chịu quả “khổ”. Vậy muốn hết khổ,
lẽ tất nhiên là phải diệt nghiệp, muốn dứt nghiệp trước phải trừ vô minh.
Trừ căn bản vô minh có hai
cách:
Ðối với các bậc Ðại Thừa Bồ
Tát, vì thấy rõ thể tánh chân tâm do vô minh vọng động mà có thế giới chúng
sinh, ngã và pháp, nên các Ngài dùng trí Bát nhã phá trừ “sinh tướng vô minh”,
để trở lại với bản thể chân tâm. Khi đã ngộ được chân tâm rồi, thì tất cả sanh
tử luân hồi đều hết. Như trong Bát nhã Tâm kinh có chép: “Ngài Quán tự tại Bồ
Tát khi đi sâu vào trí Bát nhx Ba la mật đa rồi, thì thấy tất cả năm uẩn đều
không, nên khỏi các điều khổ ách…”. Hay như trong kinh Lăng Nghiêm có chép:
“Ðối với người tỏ ngộ được chơn tâm, thì mười phương thế giới đều tiêu hết”.
Ðối với người không thể phá
trừ ngay được căn bản vô minh để trực ngộ chân tâm, thì phải lần hồi trải qua
vô số kiếp tu hành, khi đến địa vị Ðẳng giác, dùng trí Kim cang phá trừ được
“sanh tướng vô minh”, mới chứng quả Diệu giác (Phật ).
b) Diệt vô minh ngành ngọn
(chi mạt vô minh). Ðối với hàng phàm phu và Tiểu Thừa, căn cơ thấp
hẹp, thì không thể trực tiếp phá trừ vô minh gốc rễ như hai bậc trên, mà chỉ có
thể phá trừ vô minh ngành ngọn là “ái, thủ, hữu”. Khi ngành ngọ đã bị chặt rồi,
thì gốc rễ dần dần bị tiêu diệt, như bụi tre mà bị xắn hết cả măng, thì sẽ phải
tàn rụi.
Diệt trừ vô minh ngành ngọn
cũng gồm hai phương diện.
Quán lý: Là dùng lý lẽ để
nhận thấy rằng các pháp chỉ do nhân duyên hòa hợp mà sanh ra, chứ không có thật
(không hữu); bởi không có thật, nên không nên tìm cầu chấp thủ (không thủ). Ðã
không chấp thủ, thì cũng không tham muốn (không ái). Nghĩa là bắt đầu quán
“hữu”, rồi đến “thủ”, rồi cuối cùng là “ái”. Nếu ba cái nhân này không có, thì
cái quả “sanh, lão, tử” cũng chẳng có.
Quán sự: Là y theo sự tướng
mà quán sát rồi thực hành. Hành giả bắt đầu quán “ái” trước, rồi đến “thủ” và
“hữu”. Kinh chép: “Hữu ái sinh ưu, hữu ái sinh úy, vô sở ái nhạo hà ưu hà úy?”.
nghãi là: Bởi có tham muốn thì có lo sợ gì? Vì khi đối cảnh, sanh tâm tham muốn
(ái), nên mới tạo tác ra các nghiệp (thủ), do đó phải chịu sanh tử luân hồi
(hữu). Bấy giờ, nếu đối cảnh không tham ưa (không ái), thì chẳng tìm cầu chấp
thủ ( không thủ), vì không chấp thủ nên chẳng có sanh tử luân hồi (không hữu).
Cũng như trong kinh Lăng nghiêm Phật dạy: “..Chỉ khi các ông đối cảnh, không
khởi vọng niệm phân biệt, thì tham, sân, si chẳng khởi; tham, sân, si kh khởi
thì sát, đạo, dâm, vọng không sanh…”.
Tóm lại, mê hoặc hết (ái)
thì nghiệp chẳng có (thủ), nghiệp không thì khổ chẳng còn (hữu).
Trong bốn cách trừ vô minh,
chỉ có pháp “quán sự” này dễ dàng và thiết thật nhất, lại hợp với căn cơ của
người tu hành hiện tại.
IV. Hiệu Quả Của Pháp 12
Nhân Duyên
Hành giả sau khi thành tựu
pháp quán mười hai nhân duyên này, thì sẽ trừ được tâm si mê là nguyên nhân
chính của khổ đau và luân hồi của chúng sinh. Ðức Phật thường bảo: “Sự khổ ở
tam đồ chưa hẳn là khổ, chỉ có người thiếu trí huệ mới là khổ thôi”. Xem thế
thì đủ biết trừ được tâm si mê và làm cho trí huệ được phát chiếu là một điều
quan trọng bậc nhất của kẻ tu hành.
Hơn nữa, hành giả còn nhờ
pháp quán mười hai nhân duyên này mà sẽ chứng được quả Duyên giác. Khi Phật
chưa giáng sinh, cũng có nhiều vị tu hành nhờ quán sát sự sanh hóa của vũ trụ
mà được ngộ đạo. Những vị ấy người ta thường gọi là Ðộc giả, nghĩa là tự nghiên
cứu một mình mà được giác ngộ. Ðến khi Phật giáng sinh, chỉ dạy pháp quán nhân
duyên nhièu người y theo pháp qúan này tu hành mà được giác ngộ, nên gọi là
“Duyên giác” (nghĩa là những vị giác ngộ nhờ quán mười hai nhân duyên).
Chỗ giải thoát của quả vị
Duyên gíac và A La Hán đều giống nhau, nhưng về trí huệ và thần thông thì quả
Duyên giác cao hơn quả A La Hán.
Sau đây là một thí dụ về sự
thành tựu pháp quán mười hai nhân duyên của hai vị đại Ðệ tử của đức Phật Thích
Ca , là Ngài Xá Lợi Phất và Ngài Mục Kiền Liên, lượt thuật theo kinh Nhân quả:
Ở thành Vương xá, có hai
người Bà la môn rấy thông minh trí huệ, một người tên là Xá Lợi Phất và một
người tên là Mục Kiền Liên. Hia người đều tu theo ngoại đạo, có trên một trăm
Ðệ tử , và có hứa hẹn với nhau rằng, nếu ai nghe được pháp mầu trước, thì phải
chỉ dạy lại cho người kia.
Một hôm, ông Xá Lợi Phất đi
đường, được nghe mọt vị Ðệ tử của Phật là Tỳ kheo A Xá Bà Kỳ, giảng giải về đạo
lý nhân duyên và tóm tắt lại trong một bài kệ như sau: “Cội gốc của tất cả pháp
là nhân duyên sinh, không ai làm chủ, nếu ai hiểu được pháp này, thì chứng được
đạo chân thật” 1.
Khi nghe xong, ông Xá Lợi
Phất liền xa lìa trần cấu, chứng được đạo qủ thanh tịnh.
Lức trở về, ông Xá Lợi Phất
giảng nói lại cho ông Mục Kiền Liên nghe. Ông này nghe xong, cũng chứng được đạo
quả. Hai ông này liền đem 200 Ðệ tử của mình, đến xin Phật cho xuất gia làm Ðệ
tử.
C. Kết Luận
Ðể độc giả có một ý niệm
chung về bài giảng này và dễ nhớ, chúng tôi xin tóm tắt những yếu điểm sau đây:
A. Tất cả sự vật không một vật nào
riêng biệt mà tồn tại được. Chúng phải nương tựa vào nhau mới thành vật
này hay vật khác. Ðó là lý nhân duyên sanh, hay trùng trùng duyên khởi. Riêng
về loài hữu tình như kiếp người chẳng hạn, thì do mười hai nhân duyên nương
nhau mà thành một chuỗi sanh tử dài vô hạn, nối tiếp từ quá khứ đến hiện tại và
vị lai. Tùy theo cái tác dụng của nó mà mười hai nhân duyên ấy có thể chia làm
ba nhóm là: hoặc (mê mờ), nghiệp (tạo tác) và khổ (kết qủa).
B. Muốn dứt trừ chuỗi sanh tử dài
trong biển khổ đau của cõi tục, phải quán mười hai nhân duyên. Pháp
quán này có hai phần là quán lưu chuyển và quán hoàn diệt:
1. Quán lưu chuyển. là quán hiện
tượng sanh khởi và tiến triển của mười hai nhân duyên từ vô minh, hành,
thức..đến lão, tử. trong khi quán lưu chuyển hành giả có thể chỉ quán sát sự
sanh khởi và tiến triển của mười hai nhân duyên trong quá khứ, trong hiện tại
hay cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
2. Quán hoàn diệt. Là quán theo
phương pháp làm cho mười hai nhân duyên phải tiêu diệt. Có hai pháp quán hoàn
diệt:
a) Một pháp dành cho những
bậc đại căn trí, như hạng Ðại Thừa Bồ Tát, đó là pháp “diệt căn bản vô minh”.
b) Một pháp dành cho những
người căn cơ thấp thỏi như chúng ta, đó là pháp “diệt chi mạt vô minh”.
Pháp quán sau đây lại chia
ra làm hai là quán lý và quán sự:
Quán lý: là quán các pháp
không thật có (hữu) nên không chấp thủ (thủ); bởi không chấp thủ nên không tham
ái (ái).
Quán sự: là áp dụng cái lý
đã quán ở trên trong hoàn cảnh thực tại: Hành giả phải cô gắng thực hiện sao
cho kho đối cảnh không khởi tâm tham ái (ái), nhờ không tham ái mới không tạo
ác tìm cầu (thủ); do không tìm cầu nên không có (hữu) thọ quả sanh tử về sau.
Hành giả thành tựu được pháp
quán mười hai nhân duyên này thì sẽ dứt trừ được vô minh, thoát khỏi sanh tử và
chứng được quả vị Duyên giác.
Cầu mong cho quí vị độc gỉa
thấu hiêu được chân giá trị của pháp quán này và tinh tấn tu hành để đạt được
quả vị qúy báu nói trên.
Ghi Chú: Có chỗ nói bài kệ
như vầy:
“Chư pháp tùng duyên sanh,
diệc tùng nhân-duyên diệt,
Ngã- Phật Ðại Sa-Môn, thường
tác như thị thuyết”.
Dịch nghĩa:
Các pháp do nhân-duyên, cũng
do nhân-duyên diệt,
Ðức Phật của chúng ta,
thường dạy nói như vậy.
Theo Ðại Thừa thì bài kệ về
nhân-duyên như vầy;
Trích trong PHẬT HỌC PHỔ
THÔNG của Hòa thượng Thích Thiện Hoa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét