Ð. THẤT BỒ ĐỀ PHẦN
A. Mở Ðề
Thất Bồ đề phần cũng là một
pháp môn quan trọng không kém gì ngũ căn. Sở dĩ đức Phật chế ra nhiều pháp môn
như thế là để tùy căn cơ từng người, ai hợp pháp môn nầy về tên gọi, về chi
tiết thì có khác nhau, nhưng về đại thể, về tinh thần thì có nhiều chỗ giống
nhau.
Vì thế, chúng ta sẽ thấy trong pháp môn “Thất Bồ đề phần” có nhiều điểm
giống như trong “Tứ Như ý túc” hay “Ngũ căn, Ngũ lực”.
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa Thất Bồ Ðề Phần
Bồ đề do phiên âm chữ Phạn
Boddhi mà ra. Người Trung hoa dịch là Giác đạo, hay đạo quả gíac ngộ. Phần là
từng phần, từng loại. Thất Bồ đề phần là bảy pháp tu tập tuần tự hướng đến đạo
quả vô thường Bồ đề, hay bảy pháp giúp người tu hành thnàh tựu đạo quả Ðại
giác.
Nó cũng có tên là Thất giác
chi. “Giác: tức là Bồ đề, còn “Chi” tức cũng như phần vậy. Thất giác chi tức là
bảy nhánh, bảy phương tiện đi đến đích giác ngộ.
II. Thành Phần Và Nội
Dung Của Thất Bồ Ðề Phần
Thất Bồ đề phàn gồm có:
1. Trạch pháp:
Trạch là lựa chọn; Pháp là
pháp môn, là phương pháp tu hành. Trạch pháp là dùng trí huệ để lựa chọn pháp
lành để tu, pháp dữ để tránh. Trong sự tu tập, nếu ta không có trí phân biệt
chánh tà, tất phải lầm lạc. Như các bài trước đã nói, lòng tin của người Phật
tử phải dựa trên lý trí, nếu không là mê tín. Ðức Phật có dạy: “Hãy dùng trí
huệ suy nghiệm, giải trạch các pháp, rồi sẽ tin thọ, thật hành theo”. Nếu tu
lầm, tin chạ, điều có nguy hại gắp trăm nghìn lần người không tu hành. Vì vậy,
Phật tử chúng ta muốn thẳng tiến trên đường giác ngộ, giải thoát, không phải
nghe ai bảo gì tin nấy, không phải tự bảo một cách bừa bãi: “đạo nào cũng tốt
cả”; không phải dung dung hòa Phật giáo với ngoại đạo; trái lại, Phật tử cần
sáng suốt để phòng sự đánh lộn sòng của các ngoại đạo, sự xuyên tạc xảo quyệt
để làm mất lòng tin sáng suốt của chúng ta. Chúng ta phải luôn luôn tỉnh táo
phân biệt chánh, tà, chân, ngụy; phải thường trí huệ mà giản trạch cả những
pháp ở ngoài và những ý tưởng chơn vọng của tâm để tu, để đoạn.
2. Tinh tấn:
Nhưng một khi đã lựa chọn
được pháp môn chân chính để tu rồi, thì phải tinh tấn, nghĩa là luôn luôn dũng
tiến trên bước đường tu tập, không quản ngại gian lao khó nhọc, không khiếp sợ;
không thối chuyển, không tự mãn, tự cao mà bỏ dở mục đích chưa đạt được (như đã
nói ở bài ngũ căn).
3. Hỷ:
Nghĩa là hoan hỷ. Nhờ tinh
tấn tu hành, nên đoạn trừ được dần phiền não thành tựu vô lượng công đức, do
đó, sanh tâm hoan hỷ và phấn chí tu hành.
4. Khinh an:
Khinh là nhẹ nhàng. An là an ổn. Nhờ sự tinh
tiến tu tập nên thân tâm được thanh tịnh; do đó người tu hành cảm thấy nhẹ
nhàng, khoan khoái, khinh an, như đã trút được gánh nặng dục vọng, mê mờ.
5. Niệm:
(Cũng như chữ niệm trong mấy bài trước) nghĩa
là thường ghi nhớ chánh pháp để thực hành. Tâm niệm ta, nếu không thường nhớ
chánh pháp, tất nhiên tạp niệm phát sanh, phiền não tăng trưởng. Cũng như một
đám đát nếu không trồng hoa, thì cỏ mọc. Vì thế người tu hành cần phải để tâm
ghi nhớ chánh pháp, đừng cho xao lãng buông lung nghĩ bậy.
6. Xả:
Nghĩa là bỏ ra ngoài không vướng bận. Xả tức
là hành xả tâm sở, một trong 11 món Thiện tâm sở.
Hành xả nghĩa là thế nào?
Người tu hành, nhờ trí sáng
suốt, nhận biết “thọ là khổ”, nên không nắm giữ một thứ nào hết, dù quý báu bao
nhiêu. Ngay trong sự tu hành cũng vậy, họ không trụ trước ở các pháp mình đã
tu, đã chứng; trái lại họ luôn luôn xả bỏ những gì mình đạt đến, để tiến triển
trên bước đường đi đến giải thoát. Nếu người tu hành cứ mãi say đắm vào quả vị
mình đã chứng, thì suốt đời sẽ bị trầm một nơi đó, không bao giờ có thể tiến
lên, để đạt thành đạo quả vô thượng Bồ đề. Kinh Kim Cang sớ có nói: “Người tu
hành phải như người nương thuyền qua sông, khi thuyền đã cập bến, nếu ta không
bỏ nó để lên bờ, thì đừng hòng đến dâu và biết gì được. Người muốn thành đấng
siêu việt tự tại, cần phải từ trước khước mọi đắm say”.
Pháp hành xả nầy giúp chúng
ta thành tựu sự siêu việt.
C. Kết Luận
Tóm lại, người tu bảy pháp
Bồ đề phần nầy, chắc chắn sẽ được bốn kết quả quý báu sau đây:
1. Tất cả pháp ác đều được
tiêu trừ.
2. Tất cả pháp lành càng
ngày càng tăng trưởng.
3. Vì thường tu thiện, đoạn
ác, nên luôn luôn được an lạc, không bị đau khổ.
4. Sẽ chứng thành Phật quả.
Trích trong PHẬT HỌC PHỔ THÔNG của Hòa thượng Thích Thiện Hoa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét