A. Mở Ðề
Lòng tham lam của con người
ôm ấp bám víu mãi mãi vào sự vật
Chúng ta, đã là chúng sinh,
thì ít nhiều đều có tham vọng. Lòng tham vọng ấy bám víu chặt chẽ vào sự vật mà
chúng ta đã cấu tạo, nắm bắt được. Chúng ta chỉ buông thả chúng ra, sau khi
trút hơi thở cuối cùng.
Nói cho đúng, không phải đến phút cuối cùng chúng ta
mới chịu buông thả mọi vật; chúng ta vẫn cứ muốn nắm giữ chúng mãi, nhưng chính
chúng đã rời bỏ chúng ta mà đi. Chúng ta đã bất lực, không còn đủ hơi sức để
nắm giữ chúng nữa, nên đành buông xuôi tay để chúng tuông đi, chứ nếu còn hơi
sức, chúng ta vẫn còn muốn nắm lại và giam giữ một cách tuyệt vọng những gì đã
nắm được. Suốt đời, chúng ta vẫn lặp đi lặp lại mãi cái cử chỉ nắm bắt, giữ gìn
ấy. Và suốt đời biết bao nhiêu lần chúng ta đã đau khổ, thất vọng, vì mọi sự
vật ở đời không bao giờ chiều theo ý muốn của chúng ta mà chịu ở yên một chỗ. Mọi
sự vật đều luôn luôn biến chuyển, đổi thay, nay đây mai đó, như một anh chàng
lãng tử, như một dòng sông, như một đám mây, như một vó ngựa ! Thời gian trôi
qua như thế nào, thì mọi vật cũng trôi qua như thế ấy. Noió theo danh từ nhà
Phật , thì sự biến chuyển, đổi thay ấy là luật Vô thường.
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa
Vô thường là thế nào? Hãy
nghe đức Phật dạy: “Tất cả những gì trong thế gian đã là biến đổi, hư hoại, đều
là Vô thường”. Vậy Vô thường nghĩa là không thường, không mãi mãi ở yên trong
một trạng thái nhất định; luôn luôn thay hình đổi dạng; đi từ trạng thái hình
thành đến biến đi rồi tan rã…Ðạo Phật gọi những giai đoạn thay đổi của một vật
là: thành, trụ, hoại, không (hay sanh, trụ, dị, diệt). Như một làn sóng, khi
mới nhô lên gọi là thành (hay sanh) khi nhô lên cao nhất thì gọi là trụ; khi hạ
dần xuống thì gọi là hoại (hay dị), khi tan rã thì gọi là không (hay diệt). Tất
cả sự vật trong vũ trụ, từ nhỏ như hạt cát, đến lớn như trăng sao, đều phải
tuân theo bốn giai đoạn ấy cả, nên gọi là Vô thường.
Ðể có một ý niệm rõ ràng hơn
về sự Vô thường, chúng ta hãy quan sát, suy nghiệm ngay cái thân chúng ta, cái
tâm chúng ta và cái hoàn cảnh chúng ta đang sống, thì sẽ biết.
II. Thân Vô Thường
“Thân tôi mạnh khỏe luôn,
trẻ đẹp mãi, và đời tôi là cả một bài thơ..”Ấy là quan niệm nông nỗi của một số
nam nữ thanh niên, quá yêu chuộng thân thể họ trẻ mãi, hay nếu có già, thì cũng
còn lâu lắm, không ngờ rằng nó già, nó chết, từng giây từng phút. Câu thơ sau
đây của người xưa thật đã nói lên được sự thay đổi mau chóng của thân ta:
“Quân bất kiến cao đường
minh cảnh bi bạch phát ! Triêu như thanh ti, mộ như tuyết?”
“Anh không thấy cha già soi
gương buồng tóc bạc !
Sớm còn như tơ xanh, tối đã
trắng như tuyết”
Khoa học đã chứng minh rằng,
trong thân thể ta, các tế bào thay đổi luôn, và trong mỗi thời kỳ 7 năm, là các
tế bào cũ hoàn toàn đổi mới. Sự thay đổi ấy làm cho thân thể chóng lớn, chóng
già và chóng chết. Thân năm trước không phải thân năm nay, thân ban mai không
phải thân buổi chiều, mỗi phút giây trong thân ta đều có sanh và có chết. Sau
đây là một câu chuyện rất có ý nghĩa để chứng minh sự Vô thường của thân xác:
Một người bộ hành lỡ đường
vào trọ trong một ngôi nàh bỏ hoang. Ðêm đến, anh ấy thấy một con quỷ tóc xanh,
vác một cái thây ma mới chết vào, định xé xác ra ăn. Bỗng một con quỷ khác, tóc
đỏ, xô cửa bước vào. Hai con quỷ tranh nhau cái xác chết, con nào cũng nói của
mình bắt được trước. Chúng sắp xăn tay áo đánh giết nhau, để giành cái xác.
Bỗng chúng nhìn thấy anh chàng bộ hành đang nằm run sợ trong góc phòng; chúng
vội vã kéo anh ta ra làm trọng tài, hỏi xem trong hai chúng, ai là kẻ đáng làm
chủ cái xác. Anh bộ hành sợ hãi quá, nhưng cứ tình thật nói rằng: cái xác thuộc
về con quỷ tóc xanh vì chính anh ta thấy nó mang xác vào trước. Con quỷ tóc xanh
được xác, mừng rở cảm ơn rối tít anh bộ hành; nhưng con quỷ tóc đỏ mất miếng
mồi ngon, tức giận lôi đầu anh ta ra quyết ăn tươi nuốt sống cho hả giận. Nó đè
anh ta xuống, rứt một cánh tay bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến…Con quỷ tóc xanh
thấy thương tình anh bộ hành và để tỏ lòng tri ân, rứt cánh tay của cái xác
chết lắp vào cho anh ta. Con quỷ tóc đỏ lại rứt cánh tay kia của anh bộ hành ăn
tiếp; và con quỷ tóc xanh chắp tay của xác chết vào cho anh ta. Cứ như thế, hể
con quỷ tóc đỏ rứt một phần nào trong thân thể anh bộ hành để ăn, thì con quỷ
tóc xanh lại lấy một phần của thây ma điền vào cho thân anh ta…Sau khi ăn hết
cả thân thể của anh bộ hành, con qủy chùi miệng đầy máu me, rồi bỏ ra đi. Con
quỷ tóc xanh cũng đi theo.
Anh bộ hành bàng hoàng như
vừa tỉnh một cơn ác mộng và cứ phân vân tự hỏi: không biết cái thân hiện tại
anh đang mang đó là của anh hay của ai?
Câu chuyện trên chứng minh
cho chúng ta thấy từ khi sanh cho đến khi chết, thân ta đã không biết bao lần
thay đổi; và cái xác khi người ta dặt vào quan tài, thật không còn gì giống với
cái thân khi mới sơ sanh.
Dòng nước hôm qua của con
sông Ðồng Nai chẳng hạn, ngó bề ngoài thì không khác gì dòng nước hôm nay;
nhưng nước hôm qua, bây giờ có lẽ đã hòa với nước mặn ở ngoài Ðại dương và nước
hôm nay chính là nước khác ở nguồn mới chảy về đây. Thân người cũng vậy, “hằng
chuyển như bọc lưu” (chảy luôn như nước lũ).
Nhưng khổ thay ! Có phải nó
thay một cái này để đổi lấy một cái khác, giống y như cái trước đâu ! Một tế
bào nầy mất di, một tế bào khác thế lại, nhưng tế bào trước trẻ hơn tế bào sau;
tế bào sau già hơn tế bào vừa được kế tiếp…Và cứ như thế mà thân người đi từ
trẻ đến già, từ sống đến chết !
Ðức Phật , lúc còn là một
Thái Tử, đã than với bà Da Du trong cung vui, khi nghĩ đến Vô thường của thân
người.
“…Chúng ta sẽ già yếu và xấu
xa. Thời gian sẽ phủ lên đầu chúng ta những lớp tro bạc. Ôi! mắt trong của em
rồi sẽ mờ đục ! Môi đỏ của em rồi sẽ úa màu !…Ta nghe trong ta, trong em và
trong cả mọi người, mỗi ngày mỗi đổ vỡ, dưới sức tàn phá cảu búa thời gian, tất
cả những gì quý báu của đời người…chúng ta ôm giữ một cách tuyệt vọng, những
bảo vật ở trong ta, như ôm giữ một cái bóng, như nắm bắt một làn hương !”.
Trí huệ thay ! Con người cao
sang và đang trẻ đẹp, bên cạnh lại có vợ hiền sớm hôm hầu hạ, thế mà vẫn đủ
sáng suốt, để nhìn thấy luật đẹp của đời người ! Những lời thống thiết ấy,
chanửg những đã cảnh tỉnh Công chúa Da Du, mà còn đánh thức những ai còn say
đắm trong cảnh đời giả tạm, cảnh sanh, già, bệnh, chết, là hiện thân của luật
Vô thường. Có thân thì phải chịu công lệ sanh già bệnh chết, không thể tồn tại
mãi được. Ðức Lão Tử cũng đã nhận thấy thân là nguồn tội lỗi, là gốc khổ đau,
nên đã thốt ra câu:
“Ngô hữu đại hoạn, vị ngô
hữu thân,
Ngô nhược vô thân, hà hoạn
chi hữu?”
(Ta có cái khốn khổ lớn, vì
ta có thân,
Nếu ta không thân thì đâu
khổ gì?)
Thân là Vô thường, thế mà
lắm người vì muốn trao dồi, bồi bổ, cung phụng xác thân đến nỗi gây biết bao
tội ác ghê ghớm ! Vì muốn được thích khẩu, bổ thân, mà lắm người đành tay giết
hại nhứng con vật yếu hèn và hành hình những con vật vô tội trước khi chết một
cách rùng rợn. Ðọc lịch sử, nghe Tần thỉ Hoàng ăn óc khỉ sống, ta đã cảm thông
được nỗi đau đớn những con vật bị giết, thế mà người dự tiệc vẫn vui cười sung
sướng, không đoái hoài đén tiếng rên xiết, kêu la, vùng vẫy cảu chúng, thì thật
là độc ác đến chừng nào ! Lòng trắc ẩn của người ở đâu? Hỡi ôi ! Hung ác và
thâm hiểm thay, lòng dạ của con người !
Vì tham lam làm vẩn đục, tối
tăm lương tri, nên con người không thấy rõ được lý Vô thường của thân xác và
mới nỡ tâm làm điều tán ác như thế !
III. Tâm Vô Thường
Thân đã Vô thường, nhưng còn
tâm niệm có thường không? Tâm niệm cũng âm thầm dời đổi, lại có phần mau lẹ và
vi tế hơn, nếu chúng ta không nhìn sâu vào, ắt khó mà thấy được.
Tâm niệm chúng ta thay đổi
trong từng phút giây, theo với ngoại cảnh: chúng ta buồn đó rồi vui đó, thương
đó rồi giận đó. Phút trước ta nhớ chuyện nầy, phút sau ta nghĩ chuyện khác. Hôm
qua ta tinh tiến tu hành, hôm nay đã ưu phiền thổi chuyển. Thật đúng như đức
Phật đã nói:
“Tâm người như vượn chuyền
cây,
Như ngựa rông nơi đồng
nội..”
Tâm niệm ta sanh diệt trong
từnh sát na; và chính vì nó sinh diệt mau lẹ như thế, nên ta có cảm tưởng như
nó không thay đổi gì cả. Ðối với một đứa trẻ con, nếu chúng ta bảo rằng những
hình ảnh cử động in như thật trên màn bạc, là do sự tiếp nối những tấm phim,
ảnh hiện lên rồi biến mất, để nhường chỗ cho những tấm ảnh khác, trước ngọn đèn
chiếu..nếu ta bảo như thế với một đứa bé, chắc nó không tin, vì nó chưa hiểu
được cái công dụng của tốc lực. Cũng như thế đó, tâm ta được cấu tạo bởi từng
niệm sanh diệt, như ng vì chúng ta không nhận được sự biến chuyển mau lẹ của
nó, nên ta cứ tưởng là nó đơn thuần và bất biến. Cái ta phút trước phải đâu là
cái ta phút nầy? Và cái ta phút nầy đâu còn là cái ta phút sau? Vậy cái ta nào
là cái ta thật? Cái ta phút trước, cái ta phút nầy hay cái ta phút sau? Một nhà
thi sĩ dã hỏi một câu có vẻ ngớ ngẩn nhưng nghĩ ký thật là vô cùng sâu sắc:
“Ai bảo giùm: ta
có ta không?”
Cái ta (hay cái tâm cũng
thế) Vô thường tạm bợ, giả tạo như thế, thế mà người đời cứ cho nó là trung tâm
điểm của vũ trụ, bám víu vào nó, nhơn danh nó để tham lam, vơ vét tài sản, danh
lợi ở chung quanh, và dù có dẫm đạp lên hạnh phúc của kẻ khác, gây bao đau
thương cho người đồng loại, cũng mặc ! Thật mêm mờ lắm thay !
IV. Hoàn Cảnh Vô Thường
Như trên chúng ta đã thấy
luật Vô thường ở khắp mọi nơi, chẳng những thân, tâm là Vô thường, mà hoàn
cảnh, sơn hà đại địa, cũng Vô thường nữa.
Sách thường có câu:
“Thương hải, tang
điền” (Bãi biển nương dâu)
Câu ấy mới nghe như là một
hình ảnh bóng bẩy về văn chương; nhưng thật ra, đó là một nhận xét rất đúng
trong thực tế. Chúng ta, thường lầm tưởng chỉ có sinh vật là biến đổi và mau
già chết, chứ những vật lớn lao như núi sông, đất cát, thì muôn đời cũng vẫn ở
yên một chỗ. Nhưng chúng ta đã lầm, sông núi cũng có cái già cái trẻl đất cát
cũng có khi lở khi bồi. Không có vật gì là vĩnh vin tồn tại. Tục ngữ ta có
nhiều câu nói lên được sự Vô thường của sự vật một cách rất thâm thúy như: “Vật
đổi, sao dời” hay “Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”.
Thật thế, một đời của chúng
ta đã chững kiến biết bao sự thăng trầm, vinh nhục, lên voi xuống chó. Giàu
nghèo, sang hèn tiếp tục din ra trước mắt chúng ta như một bức tranh vân cẩu,
như một khúc phim trong rạp chiếu bóng. Bao nhiêu người, trước đây, nào dinh
thự nguy nga, ruộng vườn cò bay thẳng cánh, thế mà sau một cơn binh lửa, sự
nghiệp bỗng tan tành như mây khói ! Bao nhiêu người quyền cao, chức trọng hống
hách, nghinh ngang, thế mà một phút sa cơ thất thế, bỗng trở thành những kẻ tha
phương cầu thực, hay vướng cảnh tù đày !
Sự Vô thường đã sờ sờ trước
mắt, thế mà có biết bao nhiêu người vẫn chưa tỉnh ngộ, cứ đeo đuổi bám víu vào
những cái hào nhoáng nhất thời ấy. Kẻ bán tước, người mua quan, kẻ tham danh
người ham lợi…gây biết bao trò cười cho khách bàng quan, và bày ra lắm cảnh
nhọc nhằn cho người trong cuộc.
Thuở xưa, có một ông vua,
sau khi đi dạo khắp phố phường, thấy nhân dân giàu có sung túc, mới sanh lòng
tham lam, muốn sung công bớt tài sản của họ, để bỏ vào kho. Nhà vua liền ra
lệnh ai có của phải nạp bớt cho triều đình.
Lịnh truyền ra, nhà nhà đều
công phẫn, nhưng biết kêu ca với ai bây giờ? Trong lúc ấy, có một người lái
buôn, muốn thức tỉnh nhà vua, nên đánh bạo đem hết tài sản về kinh đô, đến giữa
trào, dâng lên vua và tâu rằng:
Hạ thần xin dâng hết tài sản cho triều đình
Vua ngạc nhiên phán hỏi:
Ta chỉ thâu một phần thôi, sao ngươi lại dâng hết cả
như thế?
Tâu, vì hạ thần nghĩ của này không phải của Hạ
thần, mà là của 5 nhà: nước trôi, lửa cháy, giặc cướp, sung công và vợ con phá
tán. hạ thần dù cố sức giữu gìn thế nào đi nữa, cũng không khỏi bị một trong 5
nhà ấy chiếm đoạt. Vì thế hạ thần xin dâng hết, không giữ làm gì, để về sau
khỏi khổ sở vì nó. Mong Hoàng thượng nhận hết cho, hạ thần rất cảm tạ ơn sâu
ấy.
Sau khi nghe lời tâu của
người lái buôn, nhà vua ngẫm nghĩ hồi lâu, chợt tỉnh ngộ, cả thẹn và thầm bảo:
“Người nầy đến dạy khôn cho ta. Giang sơn
cẩm tú của ta, ta có giữ gìn được lâu dài không? Hay sẽ bị năm nhà, mà người
lái buôn vừa nói, đoạt mất? Giang sơn còn chưa giữ được, huống hồ tài sản của
nhân dân ! Người ấy là ân nhân của ta, nếu không có người đem ánh sáng thức
tỉnh ta, thì ta sẽ làm một việc rất tàn ác”.
Suy nghĩ xong, vua bèn hạ
lệnh ngưng sung công, lại còn xuất tiền phát cho dân nghèo nữa. Thật là một mẩu
chuyện quý báu, để thức tỉnh những ai đang còn chìm đắm trong vòng danh lợi,
đang gây đau khổ cho mình và những người chung quanh, vì chưa nhận chân được lẽ
vô thường của hoàn cảnh.
V. Quyết Ðịnh
Có người nghi rằng: Ðạo Phật
nói vô thường, phải chăng vô tình gieo vào lòng mọi người những quan niệm chán
đời thối chí? Vì sự vật đã vô thường thì không nên làm gì cả, có siêng năng
hoạt động kinh doanh sự nghiệp rồi cũng không đi đến đâu cả. Tro bụi, người sẽ
trở thành tro bụi hay sao?
Xin đáp: Vô thường của đạo
Phật là một phương pháp chỉ rõ mặt trái của đời, để bài trừ những sự mê lầm,
ngăn chặn người chạy theo vật dục, nó chưa phải là thuyết tuyệt đối.
Ðức Phật cũng như vị lương y
tùy theo chứng bệnh mà cho thuốc. Với bịnh “chấp thường còn không mất”, thì
dùng phương thuốc “vô thường” để đối trị, khi lành bịnh thì Phật lại cho thứ
thuốc bổ khác quí báu hơn, là “thuyết chơn thường bất biến”. Theo kinh Lăng
Nghiêm, Ngài A Nan cũng lầm như chúng ta, cho nên đức Phật bảo Ngài La Hầu La
đánh chuông để chỉ bày cho Ngài A Nan phân biệt cái “biến đổi tiêu diệt”, và
cái “thường còn không thay đổi”. Khi tiếng chuông do Ngài La Hầu La đánh ngân
lên, đức Phật hỏi Ngài A Nan có nghe không?
Ngài A Nan đáp:
Bạch Thế Tôn ! Nghe.
Khi tiếng chuông dứt, Phật
lại hỏi:
A Nan có nghe chăng?
Ngài A Nan đáp:
Bạch
Thế Tôn ! Không còn nghe nữa. Ðức Phật lại bảo Ngài La Hầu La, đánh tiếng
chuông thứ hai, rồi Phật cũng hỏi như lần trước, và Ngài A Nan cũng đáp có
nghe.
Ðức Phật quở:
A Nan, sau ông trả lời lẩn quẩn như thế?
Ngài A Nan ngạc nhiên; đáp:
Chẳng
những một mình con mà mọi người ai cũng thừa nhận có tiếng thì có nghe, tiếng
dứt thì không còn nghe.
Ðức Phật gạn lại:
“Ông
và mọi người đều cho có tiếng là có nghe, tiếng dứt, thì không có nghe nữa; thế
là “tánh nghe” theo tiếng mà mất, thì có lẽ không bao giờ nghe nữa. Tại sao lúc
tiếng thứ hai ngân lên, lại còn nghe nữa ? Nếu nghe được tiếng thứ hai, thì
nhất định biết không phải tiếng dứt mà không nghe. Tiếng có lúc còn lúc mất,
“tánh nghe” vẫn thường không dời đổi. Vả lại, nếu tiếng dứt rồi mà tánh nghe
không còn, thì cái gì biết được sự không nghe ấy?”
Cho biết, Phật dạy “vô
thường” để đối trị chấp thường còn của chúng sanh. Ðến khi chúng sanh đã hiểu
lẽ vô thường, thì Phật lại chỉ bày lẽ chơn thường bất biến.
C. Kết Luận
Vô thường là một định luật
chi phối tất cả sự vật, từ thân, tâm cho đến mọi hoàn cảnh. Hiểu lý vô thường,
chúng ta đã có một phương thuốc thần diệu để trừ bệnh tham ái, mê mờ. Chúng ta
đã đau khổ vì màu sắc tốt xấu, vì tiếng dở hay, vì mùi vị ngọt bùi, cay đắng,
vì vật thích thân, vừa ý. Nay chúng ta uống thuốc “giáo lý vô thường”, để trừ
bịnh tham ái và tiến tới sự an tịnh của tâm hồn.
Biết được vô thường, con
người d giữ được bình tỉnh thản nhiên trước cảnh đổi thay bất ngờ và có thể
lạnh lùng trước cảnh ân ái chia ly. Biết vô thường, con người dám hy sinh tài
sản, sanh mạng để làm việc nghĩa. Biết vô thường con người mới chán ngán với
những thú vui tạm bợ, giả trá, và sáng suốt đi tìm những cái vui chân thật
thường còn. Vì thật ra, cái vui chân thật thường còn, cái tánh chân thường vẫn
có, nhưng nó nằm bên trong cái lớp giả dối tạm bợ; vô thường của cõi đời nầy,
nên chúng ta không thể thấy được. Khi chúng ta đã cương quyết gạt bỏ cái vỏ giả
dối ấy, thì tất nhiên cái giá trị chơn thật, cái hạnh phúc chơn chính, cái Phật
tánh sáng suốt, chắc thật muôn đời sẽ hiện ra.
- Trích trong PHẬT HỌC PHỔ THÔNG của Hòa thượng Thích Thiện Hoa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét