A. Mở Ðề
Nói Tổng Quát Về Ðạo Ðế
Như trong bài trước đã nói,
muốn thực chứng, thể nhập Niết Bàn thì phải tu theo phương pháp mà Phật đã dạy.
phương pháp chân chính, có hiệu quả chắc thật để thành Phật đó là Ðạo đế. Phần
nầy là phần quan trọng nhất trong bài Tứ diệu đế,
vì nếu có rõ biết đời là đau
khổ, nguyên nhân của nó là gì, và nếu có thiết tha cầu giải thoát khỏi cảnh khổ
để đến một cõi an vui tốt đẹp nhất là Niết Bàn, nhưng nếu không có phương pháp
hiệu nghiệm để thực ghiện ý muốn ấy, thì biết cho nhiều cũng vô cíhc và càng
thêm đau khổ. Do đó, Ðạo đế là phần quan trọng và được Phật dạy một cách rõ
ràng chu đáo.
Ðạo đế có 37 phẩm, chia ra
làm 7 loại:
1 Bốn món Niệm xứ (Tứ Niệm
Xứ)
2 Bốn món Chánh cần (Tứ
Chánh cần)
3 Bốn món Như ý túc (Tứ Như
ý túc)
4 Năm Căn (ngũ Căn)
5 Năm Lực (Ngũ Lực)
6 Bảy phần Bồ đề (Thất Bồ đề
phần)
7 Tám phần Chánh đạo (Bát
Chánh đạo phần).
B. Chánh Ðề
A.
TỨ NIỆM XỨ
Ðịnh Nghĩa Về Tứ Niệm Xứ
TỨ là bốn; NIỆM là hằng nhớ
nghĩ; XỨ là nơi chốn. tứ Niệm Xứ là bốn chữ, bốn điều mà kẻ tu hành thường để
tâm nhớ nghĩ đến. Ðó là:
Quán Thân bất tịnh
Quán Tâm vô thường
Quán Pháp vô ngã
Quán thọ thị khổ.
1. Quán thân bất tịnh:
Quán nghĩa là tập trung tư tưởng để quan sát
cho thấu đáo. Bất tịnh nghĩa là không sạch. Quán thân bất tịnh nghĩa là tập
trung tư tưởng để quan sát một cách tường tận về sự dơ bẩn của cái thân ta.
Nói cái thân là bất tịnh,
chắc có nhiều người ngạc nhiên, phản đối cho là Phật đã nói quá đáng.
trong đời còn cái gì quý báu
hơn cái thân đâu? Người ta bảo bọc nó, nâng niu nó, cung phụng nó đủ điều.
Người ta cung cấp cho nó đủ thức ngon vật lạ; người ta đùm bọc nó trong hàng
lụa, là, gấm vóc; người ta che chở nó trong nhà cao cửa lớn; người ta dàm làm
tất cả những việc bát nhân tổn đức để cho nó được sung sướng. Cái thân được quí
chuộng, tôn trọng như thế, mà bảo rằng nó là dơ bẩn, gớm ghiếc thì ai mà nghe
được.
Song bình tĩnh mà xét lại,
cái thân nầy thật không có gi là trong sạch cả. Ngay từ khi mới đầu thai, cái
thân nầy đã bất tịnh rồi, vì nó là do hai thứ nhơ nhớp là phụ tinh và mẫu huyết
mà cấu thành. Ở trạng thái đầu tiên, nó chẳng khác gì một con hộ trùng, rồi dần
dần lớn bằng hạt đậu, rồi bằng miếng thịt, nằm lẫn trong máu me nhơ nhớp.
Về sau, nhờ sự duy trì của
nghiệp thức nó tượng thành hình người, chìm ngập trong một cái bọc đầy máu
huyết. Cái thân nằm co rút trong đó cho đến chín tháng mười ngày, rồi chun theo
một con đường rất bẩn thỉu, để ra khỏi bụng mẹ. Từ đó, nhừ những thực phẩm phần
nhiều cũng không được tinh khiết gì như thịt cá, mà cái thân lớn dần. Nếu xét
về sự tiêu hóa của thức ăn thì chúng ta cũng không khỏi lấy làm khó chịu: những
món ngon vật lạ, mới nuốt vào thì cũng ưa thích, nhưng khi đã nuốt vào khỏi cổ
cách một đem đẽ biến thành đồ bất tịnh khi bài tiết ra thì không ai chịu nổi,
ngay đến chủ nhân của nó. Chưa nó đâu xa, cái thân nầy vài ngày chưa tắm đã
thấy bẩn thỉu, rít rắm; cái miệng sáng dạy chưa súc, đã nghe có mùi hôi rồi.
Trong thân, chín lỗ thường trôi chảy ra những đồ bất tịnh như: đại, tiểu, ghèn,
rái, mũi, dãi…lắm chuyện nhơ nhớp. Ðó là mới nói bề ngoài, bề trong thân người
lại dơ hơn thập phần. Khi mổ bụng một con gà, con heo ta thấy một đống nào bọc
chứa, ruột non, ruột già, tim, gan, phèo, phổi, bong bóng…như thế nào, thì các
bộ phận trong cơ thể ta cũng chẳng khác gì thế ấy. Nhất là bộ tiêu hóa là chỗ
chứa đựng đủ thứ vật thực hôi thúi, chẳng khác gì một thùng phân.
Ðó là mới nói khi lành mạnh,
còn khi đau ốm lại càng dễ sợ hơn: nào đàm, nào mũi, thúi tha tanh hôi không
sao chịu được, nhất là gặp những bệnh nan y như lao, cùi, giang mai, hoa liễu,
thì thật là kh ai dám lại gần. Ðó là khi trẻ, còn khi già đầu bạc răng long,
lưng còm, da nhăn, má cóp, đi đứng yếu ớt, không còn đủ sức để sửa soạn bề ngoài
thì lại càng nhớp nhúa hơn nữa.
Ðến khi chết, nghiệp thức
không còn duy trì để thay lớn mới đổi lớp cũ, thì da thịt rã rời, đụng đâu rệu
đấy. Nếu không đem chôn cất cho kín, thì ruồi bọ, troi giòi rúc rỉa, mùi hôi
thúi xông lên không ai chịu nổi.
Vậy cái thân nầy quả thật là
bất tịnh, không còn chối cãi vào đâu được. Nhưng người đời vì không xét kỹ nên
mới yêu quí nó, cưng dưỡng nó đủ điều: hễ thân ưa thì mình ưa, thân ghét thì
mình ghét; làm nô lệ cho thân, gây nghiệp, chịu quả báo đời đời kiếp kiếp không
dứt. Cũng vì thân, mà tham, sân, si nổi lên; cũng vì thân mà sát, đạo, dâm sinh
ra; cũng vì thân mà cọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiện, ác khẩu hoành hành. Trăm
ngàn vạn điều lỗi lầm, cũng vì quá cưng dưỡng cái thân nầy mà tạo thành ra.
vậy hành giả cần phải quan
sát rõ cái thân là bất tịnh, mới tránh được những nghiệp tham ai. Nhưng quán
sát như thế nào?
Xưa ở Ấn độ, khi một hành
giả muốn quán sát thân bất tịnh, thì tìm đến khu rừng người ta bỏ xác người
chết, gọi là thi lâm(1) để quán theo lối” Cửu tưởng quán” của Phật dạy: Phép
quán này gồm các giai đoạn như sau:
a) Trướng tưởng: Ngày đầu ở gần
bên cạnh thay chết, quán thây sình trướng to lên.
b) Thanh ứ tưởng: Ngày thứ hai
quán thây bị gió nắng xanh xám.
c) Hoại tưởng: Ngày thứ ba quán
thây bị rã nát.
d) Huyết đồ tưởng: Ngày thứ tư,
quán thây máu thịt rơi rớt lai láng.
đ) Nồng lãnh tưởng: Ngày thứ năm,
quán thây chết da thịt rục rã.
e) Hám tưởng: Ngày thứ sáu,
quán chim thú đến mổ ăn thây.
ê) Tán tưởng: Ngày thứ bảy,
quán sau khi chim thú ăn, gân xương, đầu mình, tay chân chia tan nát vỡ.
g) cốt tưởng: Ngày thứ tám,
quán huyết thịt đã hết, chỉ còn bộ xương trắng bừa bãi.
h) Thiêu tưởng: Ngày thứ chín,
quán bộ xương trắng đốt cháy thành tro đất.
Chín
phép quán tưởng nầy, để đối trị lòng tham sắc dục.
Một khi phép quán nầy đã
thuần thục, thì kẻ tu hành thấy một cách tường tận như ở trước mắt, thân mình
và tất cả mọi người điều bất tịnh, không có gì đáng quý chuộng, ham muốn. Do
đó, có thể đối trị được bịnh tham sắc dục là một bịnh rất trầm trọng và nguy
hiểm của con người trên bước đường tu hành. Nhưng quán thân bất tịnh là để trừ
lòng tham sắc dục, chứ không phải để ghê tởm thân mình, đến nỗi hũy bỏ mạng
sống, hư sáu mươi vị Tỳ Kheo trong thời Phật tại thế, sau khi qúan thân bất
tịnh thuần thục ròi, thấy ghê tởm mình và người chung quanh, đến nỗi thuê người
giết đi. Ðấy là một điều mà đức Phật nghiêm cấm.
Ngày nay chúng ta không có
được huệ nhãn như Phật để trỏ vào bọn nữ sắc mà Thiên ma sai đến để quấy rối,
và bảo rằng: “Những cái túi gia đựng toàn những đồ dơ bẩn kia, hãy đi đi, ta
không dùng ! “. Nhưng nhờ khoa học đã phát minh ra kgoang tuyến, chúng ta có
thể thấy được rõ ràng những bộ xương sườn, xương sống, đầu lâu, tim, gan, phèo,
phổi của một tuyệt thế giai nhân, qua ống rọi kiếng. Và chỉ chừng ấy củng đủ cho
chúng ta quan niệm rằng: Cái đẹp chỉ là bộ mã bên ngoài , là lớp gia bọc, chứ
bên trong thì bộ xương nào cũng giống nhau cả, và chiếu qua quang tuyến X, thì
cái đầu lâu của một người đép, cũng chẵn khác gì cái đầu lâu trắng phêu đang
nằm lăn lóc ngoài bãi tha ma.
Hỡi Phật tử, nếu ai đã phát
tâm chân thật tu hành, thì hãy cố gắng thi hành pháp “quán thân bất tịnh “; nếu
chưa đủ phương tiện để thực hành phép quán ấy, thì cũng đừng bao giờ nên quên
rằng: thân người không trong sạch, không có gì đáng say mê đắm đuối để đến nỗi
phải gây ra bao nhiêu tai hại, tội lỗi không lường cho mình và người chung
quanh.
2.
Quán tâm vô thường:
Tâm vô thường, nghĩa là cái
tướng của tự tâm chúng ta luôn luôn đổi thay, không thường. cái tướng của tự
tâm là gì? Chính là cái phân biệt, hiểu biết hằng ngày, cái thức.
Người không học Phật thì
không nhận biết thể chơn như rộng lớn cùng khắp cả vũ trụ, mà nhận lầm cái phân
biệt, cái thức là Ta, và cho rằng cái Ta ấy là thường còn, không thay đổi, như
những ngoại đạo chấp có thần ngã hay có linh hồn thường trụ.
Thần ngã là lối chấp của ”
Số luận sư “. Họ cho rằng mỗi chúng ta có thần ngã tự tại, trong sạch, nhưng vì
phân biệt, nên nhận thấy có vũ trụ vạn hữu, rồi sanh lòng ưa muốn, bỏ mất thần
ngã tự tại trong sạch ấy. Vậy muốn cho thần ngã được giải thoát, thì phải dứt
ca ủ cái món phân biệt. Dứt cho hết sạch, không thấy, không nghe, không biết
nữa, thì thần ngã mới hiển lộ ra, và khi ấy mới nhận biết rằng vì mình mới sanh
ra có vũ trụ. Họ cho như thế là rốt ráo, mà khônh biết thần ngã ấy cũng chỉ là
vọng thức mà thôi.
Còn linh hồn là lối chấp của
đa số thần giáo. Họ cho rằng duy có xác thịt chết, chứ cái linh hồn trong
trường hợp nào cũng vẫn nhận biết mình, biết người, cũng thấy nghe như xác
thịt, không bao giờ chết…
Nhưng sự thật không phải
thế: cái tâm của chúng ta không thường chút nào hết. Nó thay đổi luôn, khi nhỏ
khác, khi lớn khác, khi có học khác, khi chưa học khác, khi vui khi buồn, khi
thương khi ghét, khi chuyên niệm về một chỗ, khi tản mát ra các trần duyên…thật
không có gí là thường hết. nó là tâm pháp vô thường, nó thay đổi đủ cách, tùy
chỗ tu tập của mình à tiến hóa. Nếu tâm là thường thí không có sanh tử.Nếu tâm
là thường, thì dù có tu hành cũng không tăng trưởng, thì người dốt cứ dốt,
người vụng cứ vụng, người dữ cứ dữ. Nếu tâm là thường thì không ó nhân quả, tu
cũng chừng ấy, mà lành cũng chừng ấy, cho đến người học, người không học cũng
như nhau, chẳng có gì sai khác, thay đổi cả.
Vì muốn đối trị cái vọng
chấp kia, nên Phật mới dạy phép quán “Tâm vô thướng”, để cho chúng sanh nhận
biết rằng cái tâm không phải như một vật bất biến vô dụng, không phải là cái
“Ta” chắc thật muôn đời, rồi nương vào đó mà sanh ra không biết bao nhiêu là
vọng tưởng phiền não. Những tánh tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến v.v…đều do
ngã chấp mà sanh ra cả.
Lại cũng vì chấp tâm là
thường nên chi chi cũng là do bản tánh của mình, không thể sửa đổi được , như
bảo:” Tánh tôi hay nóng giận, hay tham lam “; “Tánh tôi hay đa mê đờn ca xướng
hát “; “Tánh tôi thích cờ bạc rượu chè”.
Họ cho đó là một lối bào
chữa, vì không phải lỗi tại họ, mà tại cái bản ngã chắc thật của họ như thế
rồi, không làm sao sửa đổi được. Do đó, họ không thể nâng cao tâm trí theo con
đường chơn chánh được.
Vậy, Phật tử chúng ta cần
phải quán sát cái “tâm vô thường” đổi cái tâm mê lầm ra cái tâm giác ngộ, phải
trừ ngã chấp để ra khỏi vòng sanh tử luân hồi.
3. Quán pháp vô ngã:
Pháp, theo tiếng Phạn là
Dharma. tàu dịch là quỹ trì, nghĩa là năm giữ phạm vi của mình, như vuông, dài,
tròn méo…để mỗi khi người ta trông đến, liền nhận biết cái nầy là gi, và khỏi
lẫn lộn với vật khác. Nghĩa chữ Pháp rộng lớn mênh mông, chỉ cho tất cả mọi sự
thật trên vũ trụ, chẳng những các vật hữu hình, cho đến các vật vô hình tưởng
tượng như lông rùa, sừng thỏ, cũng gọi là Pháp CẢ.
Còn Ngã có nghĩa là chủ lễ,
là riêng có tự tướng của mình. Người ta thường chấp các pháp đều có tự tướng
của người, vật có tự tướng của vật, thế giới có tự tướng của quốc gia, xã hội
có tự tướng của xã hội.
Ðã chấp có tự tướng của
mình, tất nhiên thấy có tự tướng của người khác. Ðối với tự tướng của một vật,
hễ về mình thì không về người khác, còn về người khác thì không về mình. Do đó,
sinh ra tâm niệm nhân, ngã, bỉ thử, quí trpngj, khinh rẽ, tranh chấp, đấu tranh
trong xã hội.
Song, xét ra cho kỹ thì các
pháp nào phải thật có “tự tướng”? Nói về lục trần thì sắc đối với không, động
đối với tịnh, sanh đối với diệt…nào có cái gì riêng một mình thật có tự tướng
đâu? Trần đối với căn mà có hình tướng, căn đối với trần mà có tác dụng, ngoài
trần không có căn, ngoài căn không có trần. Như thế, thì biết tất cả các pháp,
dù căn, dù trần cũng đều không có tự tướng.
trong kinh Lăng Nghiên có
câu: “Nhân duyên hòa hợp, hư vọng hữu sanh, nhân duyên biệt ly, hư vọng hữu
diệt”. Nghĩa là: các nhân duyên nhóm họp thì giả dối có sanh, các nhân duyên
chia rẽ, thì giả dối có hoại diệt. Vậy đủ biết: tất cả các pháp làm nhân duyên
cho nhau, in tuồng là có, chứ không có tự tướng. Không có tự tướng, tức là “vô
ngã”.
Ví như trong giấc chiêm bao,
vì nhân duyên chiêm bao hiện ra thấy có cảnh nầy cảnh khác. Ðương khi ấy, người
chiêm bao, cũng lầm tưởng là thật có, đến khi thức dậy, mới nhận ra đó là cảnh
giả dối trong chiêm bao. Chúng ta cũng thế, vì mê lầm nên không nhận ra được sự
giả dối của sự vật. Trong khi tâm duyên với cảnh, cảnh duyên với tâm, vạn pháp
hiện ra giữa vũ trụ, chúng ta tưởng là thật có. thật ra, các pháp đều không tự
tướng, đều là “vô ngã”.
Chúng ta không biết lý “pháp
vô ngã”, cho nên ngoài bị hoàn cảnh kích thích, trong bị phiền não lay động,
quay cuồng theo sự múa rối của giả cảnh. Vì thế, tuy muốn tự tại mà chưa lúc
nào chúng ta được tự tại, muốn an vui mà chưa lúc nào được an vui, muốn thường
trụ mà vẫn phải trôi lăn trong vòng sanh tử.
nếu chúng ta chứng được pháp
vô ngã rồi, thì một thể vô ngã trùm khắp cả pháp giới. Cảnh cũng vô ngã, tâm
thức cũng vô ngã, thì còn cái chi mà ghét, mà thương, mà chịu sanh tử luân hồi
nữa.
Pháp vô ngã là lối tu giải
thoát rốt ráo. Nếu ai ai cũng biết tu hạnh vô ngã một đôi phần thì đâu có sự
ích kỷ hại nhân, và cảnh tượng thế giới hòa bình đâu phải là điều không thể
thực hiện được?
4. Quán thọ thị
khổ:
Thọ là chịu, nhận lãnh. Thọ
thi khổ nghĩa là có nhận lãnh là có khổ.
Nhận lãnh đây là nhận lãnh
cái gì?
Nhận lãnh ở đây có nghĩa vô
cùng rộng rãi, nghĩa là nhận lãnh tất cả những gì mà người đời có thể nhận được
trong cuộc sống. Trước tiên nhận lãnh cái thân nầy là cái thân rioêng của ta,
cái tâm nầy là cái tâm riêng của ta. Sự thọ nhận nầy là nguồn gốc đầu tiên để
thọ nhận những cái khác nhau về sau: để giữ gìn thân mạng, ta thọ cái ăn, thọ
cái mặc, thọ cái ở, thọ sắc, thanh, hương, vị, xúc; thọ những cái gì làm cho ta
khoái trá, thích thú, vui vẻ. và lòng tham càng nhiều, thì thọ lại càng lắm. từ
cái thọ cần thiết cho cuộc sống, ta tiến dần đến những cái thọ ít cần thiết,
rồi đến những cái thọ xa xỉ, thừa thải vô ích, nhưng vì thói quen óp nhặt, tham
lam, ta không thể bỏ qua được. Nói tóm lại, mỗi chúng sanh, mỗi cuộc đời là một
chuỗi thọ nhận liên tiếp.
Và chính thọ nhận ấy là mần
chính của đau khổ.
Trước tiên ta thọ nhận cuộc
đời; nhưng cuộc đời là gì nếu không phải là một trường đau khổ, như chúng ta đã
thấy trong phần khổ đế? nào sanh, nào lão, nào bệnh, nào tử, nào yêu mà phải xa
lìa, nào oán mà phải gặp gỡ v.v…thật là toàn những khổ nhưng đó là mới nói
những nỗi khổ căn bản. Ngoài ra, còn bao nhiêu nỗi khổ khác, cũng do thọ mà ra
như: nhận được một cái gì cho là quý thì nơm nớp sợ mất, lo tìm kiếm cách nầy,
chước nọ để giữ gìn nó. Nhưng cuọc đời đã là vô thường thì còn cái gì là tồn
tại mãi? Ngay cuộc đời của ta mà cũng không giữ mãi được thì còn cái gì được
nữa? Do đó, sanh buòn thương, tiếc nuối, mất ăn bỏ ngủ. Và người càng thọ nhiều
chừng nào lại càng khổ chừng ấy. Kẻ giàu thì sợ mất của, kẻ có địa vị thì sợ
mất địa vị, kẻ có người yêu đẹp thì sợ mất người yêu, kẻ có danh vọng lớn thì
sợ mất danh vọng…
Nhưng có phải muốn thọ lãnh
thì bao giờ cũng được thọ lãnh theo ý muốn đâu? Thọ mà may gặp thuận cảnh thì
được thỏa dạ trong phát đầu tiên, nhưng thọ mà gặp nghịch cảnh thì càng thêm
đau khổ. Ở đời, thuận cảnh thì ít, mà nghịch cảnh thì quá nhiều. Thường thường,
ta ngửa tay mong nhận lãnh một cái nầy, mà một cái trái ngược khác lại rơi vào
tay ta ! Do đó, sanh giận dữ, thất vọng, khổ đau.
Ðó là nghĩa của “Thọ thì
khổ”. Phép quán nầy mục đích đối trị bệnh tham là một bệnh trầm trọng nhất
trong các bệnh phiền não, đã ăn sâu gốc rễ trong lòng chúng sanh từ lâu đời lâu
kiếp.
Vậy Phật tử chúng ta, muốn
diệt trừ tánh tham, phải quán “thọ thị khổ”. ta phải luôn luôn nhớ lời Phật
dạy: hễ có lãnh thọ thì có khổ; càng lãnh thọ nhiều thì càng khổ lắm. càng ít
lãnh thọ, thì khổ đau càng ít. Tất nhiên chúng ta không thể xả bỏ tất cả trong
một lúc; nhưng chúng ta nên tuần tự xả những gì dễ xả, có thể xả được, rồi đi
dần đến những cái khó xả. Càng xả chứng nào lại càng nhẹ gánh đau thương. Người
đời thường cho rằng càng gánh nhiều vàng bạc châu báu, danh vọng, địa vị, sắc
đẹp, vui thú, lại càng sướng; nhưng đã gọi là gánh gì thì gánh cũng là gánh, và
càng gánh nặng thì vai càng đau, chân càng mỏi, đi càng chậm; tóm lại khổ càng
nhiều. Trái lại, nếu chúng ta không lãnh thọ, như sắc đẹp, mùi ngon, vị lạ
v.v…thì thân tâm ta không bị lay động. Ðối với cảnh ta thấy không có gì đáng
ưa, cũng không có gì đáng khổ sở. Như thế mới được an nhiên tự tại thoát vòng
khổ đau.
C. Kết Luận
“Tứ niệm xứ” là gíao lý căn
bản trong phần Ðạo đế. Có hiểu được giáo lý nầy một cách tường tận thì sự tu
hành mới vững chắc được. Nó đánh đổ được một cách rốt ráo bón thánh kiến sai
lầm lớn lao của con người là: tưởng thân mình là quý báu tốt đẹp trong sạch;
tưởng tâm mình là vĩnh viễn thường còn, như một linh hồn bất diệt; tưởng mọi sự
vật trên đời nầy chắc thật trường cữu; tưởng thu nhận tom góp được nhiều chừng
nào thì sung sướng chừng ấy.
Nhưng sự thật lại rất trái
ngược:
1) Thân thì bất tịnh, như
một cái đãy đựng đồ dơ, không đáng nâng niu chìu chuộng.
2) tâm thì vô thường, luôn
luôn biến đổi theo với hoàn cảnh bên ngoài, không có gì là trường tồn, bất
diệt.
3) Pháp thì vô ngã, không có
tự tánh nhất định, không chắc thật mà đều là như huyễn như hóa.
4) thọ thì khổ, chẳng hạn,
ta thọ lãnh cái thân, thì cái thân là dơ bẩn; ta thọ lãnh cái tâm, thì tâm là
vô thường là luôn luôn biến đổi; ta thọ lãnh sự vật ở chung quanh, thì sự vật
đều là giả trá, như khói, như mây. Do đó, càng thọ lãnh nhiều chừng nào, lại
càng đau khổ nhiều chừng ấy.
vậy chúng ta phải luôn luôn
quán sát, ghi nhớ bốn sự thật trên đây. Càng chứng được bốn sự thật ấy chừng
nào thì sự chấp ngã, chấp pháp, tham, sân, si lại càng bớt dần chừng ấy.
Phật tử càng nắm vững bốn sự
thật ấy chừng nào, thì sự tu hành theo các môn trong Ðạo đế sau nầy, như bốn
món chánh cần, bốn món Như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực v.v…mới dõng mãnh và chópng
có kết quả chừng ấy.
(1) Ở Ấn-độ có 4 cách táng
người chết là thả xuống sông, hỏa tiêu, chôn và bỏ vào rừng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét