C. TỨ NHƯ Ý TÚC
A. Mở Ðề
Sau khi đã nhận rõ được chân
tướng của cõi đời (Tứ niệm xứ), đã quyết tâm bỏ ác theo thiện (Tứ Chánh cần),
hành giả muốn đi xa trên đường đạo, cần phải vạch cho mình một hướng tiến nhất
định và phải có một thái độ quyết tâm nhắm theo đúng hướng đã vạch mà đi, không
nhìn ngang nhìn ngửa, không mong ước cái này cái khác.
Hành giả chí quyết đi
một đường, tập trung tất cả mong ước, chí nguyện, ý chí, năng lực tinh thần của
mình vào đó đến khi được toại nguyện như ý mới thôi.
Muốn được như thế, hành giả
phải tu theo pháp môn “Tứ Như ý túc”, một trong những pháp môn của Ðạo đế dưới
đây.
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa Tứ Như Ý Túc
Tứ Như ý túc là bốn phép
thiền định. Nói cho rõ đó là bốn phươngtiện giúp chúng ta thành tựu các tam ma
địa Samadhi: (chánh định), vì thế nên cũng gọi là định pháp. “Như ý” là được
như ý mình muốn. “Túc” là chân, có nghĩa nương tựa mà cũng có nghĩa là đầy đủ.
Tứ Như ý túc, có nghĩa là bốn phép làm nơi nương tựa cho các công đức thiền
định, thần thông được thành tựu mỹ mãn như ý muốn của mình. Bởi lý do ấy, nên
cũng gọi nó bằng tên Tứ thần túc. Luận Câu xá quyển 25 có nói: “Vì sao định mà
gọi là thần túc? Vì các công đức lỉnh diệu thù thắng đều nương nơi bốn định này
mà được thành tựu”.
Bốn định ấy là:
Dục Như ý túc
Tinh tấn Như ý túc
Nhất tâm Tứ Như ý túc
Quán Như ý túc.
II. Thành Phần Và Nội
Dung Của Tứ Như Ý Túc
1. Dục như ý túc:
Dục là mong muốn. Mong muốn
một cách thiết tha, mong muốn cho kỳ được, mong muốn cho đến khi mãn nguyện mới
thôi. Ðó gọi là dục như ý túc. Nhưng mong muốn cái gì? Tại sao đã là Phật tử mà
còn “dục”, còm mong muốn?
Trước tiên, chúng ta nên
nhận định rõ ràng tánh chất của sự mong muốn ở đây. Có thứ mong muốn thỏa mãn
những thú tánh, những tham vọng, đó là mong muốn tội lỗi, nên diệt trừ. Có thứ
mong muốn hướng thượng, trong lành, như mong muón sống một cuộc đời đẹp đẽ,
thanh cao, mong muốn được giải thoát ra ngoài biển khổ sanh tử, đó là thứ mong
muốn hợp lý, đáng khuyến khích. Người Phật tử mong muón được thành đạt pháp
tiền định mình đang tu, để tiến lên chứng các Thánh quả. Thứ mong muốn này rất
cần cho người tu hành; nếu không mong muốn thiết tha, mãnh liệt thì khó mà đi
đến đích giải thoát được. Ðây cũng là một sự cải chính rất hùng hồn để đánh tan
quan niệm sai lầm cho rằng: người Phật tử phải diệt dục, mà diệt dục nghĩa là
diệt tất cả, diệt luôn cả sự sống. Thật ra diệt dục ở đây tức là dực vọng, diệt
những phần ham muốn xấu xa đê hèn, làm cho con người bị đọa xuống hàng thấp
thỏi như loài sức sanh, địa ngục, chứ đâu có diệt luôn cả những chí nguyện,
những mong ước, những đức tánh tốt đẹp của con người. Sự mong muốn say nầy,
người Phật tử không bào giờ lãnh quên, trái lại họ trút cả tâm tư hướng về cái
đích mình đang nhắm, những pháp mình đang tu. Người thế gian ưa thích vật dục
mạnh mẽ như thế nào, thì người tu hành mong muốn thành tựu những pháp thiền
định của mình cũng mạnh mẽ như thế ấy. Có như thế, hành giả mới tăng tiến mãi
trên bước đường tu hành của mình.
2. Tinh tấn như ý túc:
Tinh tấn là dũng mãnh,
chuyên nhất vào pháp thiền định mình đang tu. Phần trên chỉ mới là sự ước muốn.
Sự ước muốn dù đẹp đẽ bao nhiêu mà không ra công, gắng sức, luôn luôn bền tâm
vững chí, nghĩa là thiếu sự Tinh tấn dũng mãnh, thì ước muốn muôn đời cũng chỉ
là ước muốn suông mà thôi.
Chúng ta nên nhớ rằng: Tinh
tấn không phải chỉ là sự hắng hái, bồng bột trong chốc lát, như sự ồ ạt, bốc
cháy của ngọn lửa rơm. Tinh tấn là nghị lực tu tập mạnh mẽ, thường hằng, không
bao giờ gián đoạn. Trong kinh Di Giáo đức Thế Tôn có dạy: “…Như người kéo cây
lấy lửa, cây chưa nóng đã thôi, tuy muốn được lửa, nhưng khó thể được”.
Vậy người muốn chứng đạo
quả, phải thường Tinh tấn đầy đủ như ý mình ước nguyện.
3. Nhất tâm như ý túc:
Nhất tâm là tâm chuyên nhất
vào định cảnh, không bào giừo tán loạn. Một con sông lớn, nếu bị chia nhiều
ngành tất nhiên sức chảy của nó bị yếu. Trái lại, một giòng suối nhỏ, nếu chỉ
chảy một đường, cũng đủ sức xoi thủng đá. Người tu hành, tâm được chuyên nhất,
không bị tán loạn, thì muôn sự đều thành. Phật có dạy: “như người chứa nước,
khéo giữ bờ đê, người tu hành giữ nước trí tuệ cũng vậy, phải khéo tu thiền
định, chớ cho tán động”.
4. Quán như ý túc:
Quán nghĩa là dùng trí tuệ
sáng suốt quán sát pháp mình đang tu. Quán trí ấy do định mà phát sanh, trí ấy
là tịnh trí. Vì tịnh cho nên nó có thể như thật thông đạt thật nghĩa (chân lý)
của các pháp (vũ trụ).
C. Kết Luận
Tóm Tắt Ý Nghĩa Và Diệu Dụng
Của Tứ Như ý Túc
Sở dĩ Dục, Tinh tấn, Nhất
tâm và Quán đều được gọi là như ý túc, vì chúng ta là những thứ để cho tất cả
công đức tu hành, thần lực nương vào đó mà phát sanh, hợp như ý muốn của hành
giả.
Bốn phép nầy như bốn nấc
thanh kế tiếp theo nhau, để đưa hanh giả từ cái nhân hữu lậu mê mờ, đến cái
nhân vô lậu giải thoát: Trước hết, do tu tâm hằng mong muốn (Dục), cho nên sự
tu tập dũng mãnh (Tinh tấn); nhờ sự tu tập dũng mãnh, nên phiền não tiêu, tán
động hết, do đó tam được chuyên nhất (Nhất tâm), nhờ tâm chuyên nhất nên quán
trí được thanh tịnh mãnh lợi (Quán), và có năng lực phá tan cội gốc vô minh.
Khi vô minh hết, thì vô số
nghiệp chướng phải tiêu, hằng sa trí đức phát hiện. Người tu hành, khi trí tuệ
và công đức viên mãn tức khắc đày đủ vô biên thần dụng trong sự hiện thân, hiện
độ để cứu khổ chúng sanh, chứ đâu có phải chỉ khi chứng được lục thông mới được
tự tại?
Trích trong PHẬT HỌC PHỔ THÔNG của Hòa thượng Thích Thiện Hoa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét